NGUYỄN HOÀNG THẢO
Trước khi có chợ, bên ngoài cửa Ðông Ba (cửa Chánh Đông) dưới thời vua Gia Long có một cái chợ lớn mang tên “Qui Giả thị” - chợ của những người trở về.
Chợ Đông Ba đầu thế kỷ. Ảnh tư liệu
Cái tên này đánh dấu sự kiện trở lại Phú Xuân của nhà Nguyễn và người dân khắp nơi trở về sau loạn lạc. Gần một thế kỷ sau, mùa hè năm 1885, Kinh đô Huế thất thủ, chợ Qui Giả bị giặc Pháp tàn phá. Ðến năm 1887, vua Ðồng Khánh cho xây lại chợ và đổi tên là Ðông Ba. Chợ cung cấp thực phẩm cho cung điện, nhà thương, đồn lính, ký túc xá các trường Quốc Học, Ðồng Khánh, Bình Linh, Thiên Hựu. Năm 1899, trong công cuộc chỉnh trang đô thị, vua Thành Thái cho dời chợ Đông Ba về vị trí hiện nay. Chợ lúc này gồm có 4 dãy quán: trước, sau, phải, trái. Mặt trước một dãy 8 gian, mặt sau một dãy 12 gian, dãy phải 13 gian... đều lợp ngói. Giữa chợ có một tòa lầu vuông, ba tầng, trên có đặt đồng hồ để điểm giờ khắc. Trong chợ xây một giếng đá, có hệ thống máy tay quay, giúp cho việc lấy nước giếng dễ dàng. Ðầu thế kỷ 20, chợ Ðông Ba được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn giữ cốt cách cũ.
Chợ Đông Ba đã đi vào thi ca, nhạc họa từ xưa.
![]() |
Chợ Đông Ba năm 1923. Ảnh tư liệu |
Thế nhưng, chợ Đông Ba vào những năm 1935 - 1936 đã bị ô nhiễm nặng nề và kéo dài, khiến dân chúng bất bình. Việc này đã được báo chí ở Huế phản ánh khá đầy đủ.
Ngày 17/9/1935, báo Ánh Sáng (xuất bản tại Huế, trụ sở tại số 83 đường Gia Long, do ông Nguyễn Quốc Túy chủ nhiệm) số 40, trong chuyên mục “Chung quanh… chuyện Huế” có bài “Rồi đổ tại ông trời”. Bài báo cho biết: chợ Đông Ba lúc đó mỗi ngày có hàng vạn người đến mua bán, có thể sánh ngang với chợ Đồng Xuân (Hà Nội) hay chợ Bến Thành (Sài Gòn). Tuy nhiên chợ bẩn hết sức: “Thì bạn hãy đi dạo qua các hàng coi, hàng tôm hàng cá, hàng rau hàng trái, chỗ nào cũng cả bùn là bùn, từng đàn ruồi xanh bay ra như ai ném những hột đậu xanh vào mình, thiệt là nhớp nhúa quá chừng” .
Một năm sau, ngày 25/9/1936, báo Tràng An số 159 đăng một tờ đơn của một người dân thành phố Huế tên là Nguyễn Đình Nguyên ở đường Gia Hội, “Kính bẩm quan đốc lý thành phố Huế”. Nội dung có nhiều đoạn mô tả cảnh ô nhiễm nặng nề kéo dài ở chợ Đông Ba lúc đó: “Trời mới mưa vài bữa nay mà trong đình thì nước chảy như ngoài đường, trong sân thì nước đọng lại như ao hồ lội tới mắt cá chân, nếu đến mùa mưa lụt thì chắc không họp chợ được nữa. Người đi buôn bán phải đội nón mà phải bỏ cả giày, guốc ra, hàng hóa phải che đậy cho khỏi ướt ẩm, lội trong sân nước bắn vung lên các hàng thành ra các đồ ăn phải thấm nước bẩn... Thành phố có lệ cấm dân không được làm nhà tranh, thế mà ở giữa chợ, quán lá dựng lên khắp sân, mất cả vẻ mỹ quan mà hại cho vệ sinh... Người đi chợ kiếm mua đủ các thứ đồ dùng thì thật vất vả mà quần áo bị lấm láp hết...”. Tờ đơn đề nghị quan đốc lý đi khảo sát và xử lý thực trạng đáng buồn trên.
Bốn ngày sau, báo Tràng An, số 160 (29/9/1936) đăng phóng sự để gửi đến quan đốc lý thành phố Huế, “Tôi đã vào chợ Đông Ba” của nhà báo Thanh Tuyên. Bài báo có đoạn viết: “Người ta không bao giờ dám ngờ rằng: Trong lúc kinh thành Huế thay cũ đổi mới, khoe khoang với Sài Gòn, Hà Nội, những vườn hoa đồ sộ đẹp đẽ, thì ngay giữa một cái kinh đô tráng lệ, chợ Đông Ba, chỗ tiêu thụ vật thực của mọi người, chỉ là mấy cái đình chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu, thiếu mất cả điều kiện vệ sinh thông thường”... “Chợ, gồm bốn cái đình, giữa sân là lầu chuông… Những cái nhà lá xiêu vẹo, lầu chuông thì dột nát, sân chợ không đủ cống cho nước chảy… Thế mà hàng nghìn con người ta, quần xăn, áo vén, lại phải chen nhau, mua, bán, trả réo”. Rồi chợ lại không có ánh sáng: “Trời sẩm sẩm tối. Đồng hồ vừa chỉ 5 giờ 15 thì chợ Đông Ba, bấy giờ là một chỗ chiến trường, họ đang đánh nhau trong một đêm tối mò tối mịt… Mấy nghìn con người ta chen nhau không có một ngọn đèn. Người ta còn phải đợi đèn đường đỏ mới mong trong chợ có chút ánh sáng - chỉ một chút thôi vì bốn cái đình mà chỉ có tám ngọn đèn - của khoa học phương Tây. Một cái chợ lớn nhất Trung kỳ như chợ Đông Ba có được 12 ngọn điện! Họ réo nhau, một mụ già vô ý - hay là tối tăm - đã bị một lũ ba que đánh cắp hai con bống. Một cô gái lơ đỉnh, đang níu một thằng oẳn con, rồi la in ỏi: “Ôi phu lít! Ôi bác phu lít ôi, hắn moi túi tui hết hai đồng bạc. Ừ thì cứ la, phu lít cứ chạy, họ cứ túm nhau lại, nhưng tôi đã bảo, tối như ba mươi tết, tôi dám đố một nhà trinh thám bắt giam cái thằng oẳn con cho tôi một tí”.
Tác giả miêu tả thêm về cái sự nhơ nhớp ở hàng thịt, mà tác giả gọi là “hàng ruồi” đến mức người bạn cùng đi phải chua chát: “Lạy thánh! Tôi phải về dặn trước mẹ thằng cu ở nhà mai đừng có đi mua thịt nữa”.
Nhưng “Ấy thế mà cũng chưa thấy cái đáng ghê gớm nhất ở chợ Đông Ba”, cái ghê gớm nhất mà tác giả nói đến đó là cái nhà xí của chợ. Tác giả tả kinh khủng đến mức chúng tôi không dám trích ra đây… Chỉ dẫn thêm ở báo Ánh Sáng nói: “Cái nhà xí ấy là cái lò nấu nước bông...thúi địt (xin miễn chấp) của thành phố Huế”.
Tác giả cũng đề nghị tiếp một số điều mà tờ đơn của người dân Nguyễn Đình Nguyên đã nêu: trổ thêm cống nước chảy trong chợ, đắp cao sân để tránh nước ứ, làm lưới sắt cho hàng thịt, đặt thêm đèn điện, sửa lại nhà xí...
Phóng sự này cũng đưa ra một vài con số: “Với cái chợ Đông Ba, mỗi tháng thành phố Huế thâu vừa thuế, thuế môn bài trong chợ kể tới 2.000$00, một năm tổng cộng 24.000$. Chính phủ phải trả cho một người phu lít gác chợ một năm 240$00. Bây giờ tôi mới làm thử một con toán trừ. Thì số tiền còn lại là 23.760$00, tôi tưởng Chính phủ trích hết ra mà sửa lại những chỗ đáng sửa cũng chưa thâm đến cái “két” của nhà nước kia mà”.
Sự việc ô nhiễm chợ Đông Ba chưa thấy chính quyền lúc ấy quan tâm giải quyết thì đã xảy ra một vụ “làm reo” của tiểu thương chợ Đông Ba. Báo Tràng An ngày 6/10/1936 thuật lại “Một ngày làm “reo” lớn tại chợ Đông Ba”: Từ sáng 2/10, các chị hàng vải ăn mặc đẹp đến chợ nhưng chỉ ngồi “xếp bè he” chơi chứ không bán. Trong hàng gạo “không thấy đôi quang gióng nào”. Hàng vặt “coi đến buồn thiu buồn thắt, “không còn nghe những tiếng kêu réo chửi rủa của các chị mạnh miệng ở hàng tiêu ớt”... Thì ra các chị bãi chợ vì thuế quá cao. Bài báo viết: “Năm ba năm về trước lúc buôn bán thạnh vượng, một ngày trừ thuế mà họ có thể kiếm năm bảy giác lời, nhưng bây giờ khác hẳn, suốt ngày hao cả hơi khan cả tiếng bán nhiều lắm chỉ 3$00, lời độ 0$25 đáng lẽ thuế phải hạ. Chính phủ không nghĩ đến tình cảnh sinh hoạt khốn khổ của những người bán thân nuôi miệng nay thình lình thuế chính nạp của hàng vặt lại tăng lên 0$02. Đấy là chưa kể đến hàng mắm ruốc tăng một xu, hàng gạo ba xu, hàng vải hai xu...”.
Cuộc bãi chợ chỉ diễn ra 1 ngày. Hôm sau chợ lại đông vì người ta còn phải buôn bán độ nhật. Thế mới biết ngày xưa kinh doanh buôn bán ở chợ Đông Ba thiệt không dễ chút nào...
N.H.T
(SHSDB25/06-2017)
TRẦN THỊ KIÊN TRINH
Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng.
BÙI KIM CHI
“Tháng 7 nước nhảy lên bờ”. Mà lên bờ thiệt. Mưa. Mưa. Mưa… kéo dài lê thê. Lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Nặng hạt. Xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng theo mưa và gió. Cây Lựu trước sân nhà tôi tơi tả. Trời tối dần. Mưa càng lúc càng to. Ào ào như thác đổ. Mưa suốt đêm. Sấm đất cuốn vào mưa. Ầm ầm. Ào ào. Âm thanh rộn rã…
Khi những giọt mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về, làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lặng trong lòng sông Hương, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ. Đó cũng là thời khắc mùa Vu lan đang về trên đất trời cố đô.
Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.
LTS: Tác giả của câu chuyện dưới đây, sinh ra và lớn lên ở làng quê Triều Sơn Nam, xã Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra trong sự oan nghiệt khủng khiếp của cuộc sống khi buổi sáng mẹ anh quằn quại nghe tin đau xé mất chồng, buổi chiều mẹ đón nhận tiếng khóc chào đời của anh.
NGUYỄN LỆ BA
Gia phả họ Nguyễn Quang ghi chép, tổ tiên chúng tôi là những người đã ra đi từ đất Huế. Thuở dong buồm về phương Nam đi tìm đất mới, những lưu dân đầu tiên đến dựng làng lập ấp trên vùng sông nước quê tôi chỉ vỏn vẹn vài dòng họ với đôi ba chục con người.
BÙI KIM CHI
Đã có một lần tôi được trở về thăm Huế vào một mùa trăng. Cảnh vật thiên nhiên trời ban riêng cho Huế làm Huế duyên dáng và đẹp lạ lùng vào những đêm trăng. Trăng Huế vì thế mà có nét đẹp rất riêng, là lạ, duyên dáng, lộng lẫy và quyến rũ trong phong cảnh vừa thơ, vừa duyên và lãng mạn của trời đất Huế về đêm.
NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN
NGUYỄN BỘI NHIÊN
Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.
TRIỆU BÔN
Hồi ký
Mùa mưa năm 1968 ở mặt trận đường Chín - Khe Sanh, trung đoàn 246 chúng tôi được gọi đùa là trung đoàn hai bốn đói. Ngày ngày chúng tôi sống bằng ba nguồn chính: thịt thú rừng, rau môn thục, và đỗ xanh.
NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi niềm đau đáu về quê hương, nơi mình được sinh ra và chắt chiu nuôi dưỡng trong từng hạt cát, từng trận mưa dầm dề thúi trời thúi đất hay nắng lửa trên cồn khô cát cháy, mà những con người ở đây sẵn mang một tấm lòng lồng lộng gió trời trải đi khắp muôn phương...
BÙI KIM CHI
Tôi đang đứng ở đây. Bến xe đò Đông Ba của thế kỷ trước. Bùi ngùi. Xúc động. Bến xe đã không còn. Thật buồn khi nơi này đã vắng bóng những chiếc xe đò dân dã, thân thương thuở ấy cùng những tà áo trắng học trò dung dị với giọng Huế trong trẻo ơi ới gọi nhau lên xe kẻo trễ giờ học.
NGUYỄN VĂN UÔNG
Tùy bút
Tuổi càng cao càng có nhiều nỗi nhớ vu vơ. Tôi đang trong tình trạng đó. Nhớ cồn cào đến xao xuyến là mỗi dịp xuân về: Nhớ Tết quê tôi. Nhớ tuổi thơ tôi và nhiều nỗi nhớ khác nữa.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Thuở nhỏ, tôi thường trốn ngủ trưa đi nghe hát vè. Ở Huế lúc ấy gọi là nói vè, như theo tôi phải gọi là hát vè thì đúng hơn, bởi người hát có bài có bản, có giai điệu, trầm bổng, có cả nhạc cụ.
HỒ XUÂN MÃN
(Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)
Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.
TRẦN THỊ NHƯ MÂN
Tôi sinh ra trong gia đình quan lại, đã mấy đời làm quan với triều đình Huế(1). Khi tôi lớn lên thì chế độ cai trị của thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn ổn định sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn từ nay trở đi chắc không còn phải chịu những cơn sóng gió đáng kể chi nữa.
HUY CẬN - XUÂN DIỆU
Trích "Hồi ký song đôi"
Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.
LÊ QUANG KẾT
Bông hồng dâng mẹ
Vua Tự Đức - ông vua tại vị gặp cơn biến động trong lịch sử dân tộc, sinh thời nhà vua đã tán dương công ơn mẹ: “Nuôi ta là mẹ, dạy ta cũng là mẹ: Mẹ là Thầy vậy. Sinh ra ta là mẹ, hiểu ta cũng là mẹ: Mẹ là Trời vậy”.
TRẦN HOÀN
Hồi ký
Năm 1941 thi vào trường Quốc Học, tôi đỗ vào loại khá nhưng chưa đủ mức để được cấp học bổng toàn phần.