Ngọn lửa hoằng hóa và niềm tin giác ngộ

15:27 10/06/2013

NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN

NGUYỄN BỘI NHIÊN

Bức ảnh Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân tại Sài Gòn năm 1963

         >> Khai mạc triển lãm “Lửa từ bi”
         >> Tập ảnh tư liệu lịch sử ngày 11-6-1963 - Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu của tác giả Malcolm Browne (AP) : 1931 – 2012
         >> Đại lễ tưởng niệm 50 năm Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu - Phật Giáo muốn gì? của tác giả Cao Huy Thuần

Gần bốn mươi năm trước, thấy Ba kính cẩn treo tấm ảnh đen trắng chụp hình một trái tim được đặt trên chiếc cốc thủy tinh trong suốt và chiếc cơi sáng lấp lánh ở khoảng tường đẹp nhất trước bàn thờ Phật của gia đình, anh em chúng tôi không hiểu tấm ảnh nói lên điều gì và tại sao lúc ấy gương mặt của Ba thành kính đến vậy. Thêm vài tuổi, anh trai của chúng tôi nói với đàn em còn ngơ ngác của mình rằng trái tim trong tấm ảnh ngày ngày vẫn hiện bóng trong những ánh mắt trẻ thơ chúng ta đây là trái tim của một con người - một nhà sư đã dùng thân mình thắp lên ngọn lửa huyền vi trong phong trào Phật giáo tranh đấu vào năm 1963. Đức Phật dạy con người sống hòa bình, từ bi, hỉ xả thì đã nguyện theo Phật sao lại tranh đấu và tranh đấu của Phật giáo sao lại phải tự thiêu... Thuở ấy, anh em chúng tôi chưa hiểu.
 

Tấm ảnh đen trắng chụp hình trái tim Bồ tát Thích Quảng Đức của Ba tôi (Ảnh: Bội Nhiên)


Hình ảnh Tăng, Ni, Phật tử cùng huynh trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử biểu tình ôn hòa chống sự kỳ thị tôn giáo, đàn áp và khủng bố Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, hình ảnh nhà sư Thích Quảng Đức hiền từ ngồi kiết già niệm Phật trên đường; hình ảnh tự tại của Hòa thượng Thích Quảng Đức giữa ngọn lửa dẫn chúng tôi đến niềm ngưỡng vọng nhà sư vị pháp thiêu thân. Qua ngọn lửa và trái tim bất diệt của Ngài, chúng tôi đọc thấy tâm nguyện của bậc chân tu: “Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, Hòa thượng trụ trì Chùa Quán Âm Phú Nhuận (Gia Định). Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa nghiêng, tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật Pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo...”. Qua lời kể của nhiều người, chúng tôi hiểu chính tâm nguyện đó đã đưa vị Hòa thượng nhân hậu ấy tới ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt, nay là ngã tư Nguyễn Đình Chiểu - Cách mạng Tháng Tám (Quận 3, TP. Hồ Chí Minh) vào ngày 11/6/1963 mà khoan thai bước xuống xe, chắp tay xá bốn phương rồi tĩnh tại ngồi kiết già trên đường, mặt quay về hướng Tây, miệng lâm râm niệm Phật trước giây phút tự tay mình châm ngọn lửa. “Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành chí nguyện như sau: Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên ngôn. Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường cửu bất diệt. Mong nhờ hồng ân chư Phật gia hộ cho chư Đại đức Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố bắt bớ giam cầm của kẻ gian ác. Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc. Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân và thi hành chánh sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thủa. Tôi tha thiết kêu gọi chư Đại đức Tăng Ni và Phật tử nên đoàn kết nhất trí hy sinh để bảo tồn Phật giáo”.

Báo chí thời đó phản ánh, khi ngọn lửa vị pháp thiêu thân của Hòa thượng Thích Quảng Đức bùng lên, cả Sài Gòn đã khóc và cảnh sát chống biểu tình đã buông dùi cui, súng ống... Những tấm ảnh ghi lại những khoảnh khắc xúc động của cuộc vị pháp thiêu thân bởi nhà báo Malcome Browne của Hãng thông tấn AP ngay hôm sau đã làm rung động trái tim con người trên khắp thế giới, như Tổng thống Mỹ John F.Kennedy đã nói: “Không một bức hình thời sự nào trong lịch sử lại gây nhiều xúc cảm trên khắp thế giới như vậy”. Và con người trên khắp thế giới sẽ còn nhiều xúc cảm bởi sau cái chết bình thản cung hiến cho hòa bình của dân tộc và Phật pháp, dẫu đã hai lần được đưa vào lò hỏa thiêu, nhưng năm ngàn độ lửa vẫn không thể đốt cháy trái tim xá lợi của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Như người trong cuộc đã kể, đêm trước tự thiêu, chính Hòa thượng Thích Quảng Đức đã dặn dò rằng nếu tâm nguyện thiêu thân vì đạo pháp và hòa bình của mình được Phật tổ chứng giám, Người sẽ về cõi Phật và để lại một trái tim xá lợi thì dường như tâm nguyện của Người đã linh ứng. Để rồi từ đó về sau, dẫu chỉ nhìn thấy trái tim bất tử của vị Hòa thượng vị pháp thiêu thân qua hình ảnh sao chụp nhưng những Phật tử bình dị như Ba của chúng tôi vẫn chiêm bái và phụng thờ trái tim ấy với tấm lòng thành kính và niềm tin “Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ tát/ Dội hào quang xuống chốn A tì” (Lửa từ bi - Vũ Hoàng Chương).

Cái chết vô úy của Hòa thượng Thích Quảng Đức vào ngày 11/6/1963 đã làm cả thế giới bàng hoàng, xúc động. Là một hành động tiêu biểu của tinh thần bất bạo động mà Phật giáo Việt Nam quyết định không lìa bỏ trong cuộc tranh đấu vì hòa bình và tự do tín ngưỡng từ ngày 7/5/1963 đến ngày 1/11/1963. Ngọn lửa vị pháp thiêu thân của Hòa thượng Thích Quảng Đức đồng thời là một kháng nghị cao đẹp và hào hùng, lộng lẫy chống lại sức mạnh bạo trị đen tối đương thời. Tôi đã đọc đây đó trên nhiều tài liệu điều cảm phục ấy. Qua những tài liệu về sự hy sinh có ý nghĩa giác ngộ của Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế hệ hậu sinh như chúng tôi hiểu rằng: Khi ngọn lửa chính nghĩa bừng sáng trên thân thể của vị sư “Bước ra ngồi nhập định về hướng Tây/ Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ/ Phật Pháp chẳng rời tay/... Tụng cho nhân loại hòa bình” (Lửa từ bi), nhân dân Sài Gòn đã được tiếp sức và hòa vào nhau như những giọt nước trong đại dương. Để rồi hôm nay, mỗi khi ngang qua bức tượng Bồ tát Thích Quảng Đức ở ngã tư Nguyễn Đình Chiểu - Cách mạng Tháng Tám là mỗi lần người dân tưởng nhớ Hòa thượng - Bồ tát Thích Quảng Đức và tri ân ngọn lửa chính nghĩa, ngọn lửa từ bi cũng như công đức hy sinh của Ngài cho Giáo hội Phật giáo và đất nước, dân tộc Việt Nam.

Chỗ người ngồi: Một thiên thu tuyệt tác/ Trong vô hình sáng chói nét từ bi” (Lửa từ bi), ngọn lửa vị pháp thiêu thân và quả tim bất diệt của bậc chân tu Thích Quảng Đức là biểu tượng của lòng từ bi, trắc ẩn và là điều màu nhiệm đã dẫn đến việc giới Phật tử suy tôn Hòa thượng Thích Quảng Đức thành Bồ tát. Bây giờ, dẫu hiểu biết về ngọn lửa Bồ tát Thích Quảng Đức vẫn chưa nhiều nhưng mỗi khi nhìn lên tấm hình trái tim xá lợi của Bồ tát mà Ba để lại, anh em chúng tôi vẫn thầm biết ơn ngọn lửa hoằng hóa của Bồ tát Thích Quảng Đức đã mang lại niềm tin giác ngộ: Đạo pháp trường tồn với nền hòa bình và tình nhân loại.

N.B.N
(SDB9/6-13)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN HUYỀN ÂN

  • Tôi thường hay nghĩ về tết gắn liền với hình ảnh của mạ tôi - người thường kể cho tôi nghe câu chuyện tết bằng câu mở đầu: “Hồi nớ, tết là...”.

  • Kinh tặng, hương hồn nghệ sĩ Châu Thành

  • “Những con hổ xám đường 14” là biệt danh mà nguyên Thành đội trưởng Huế Thân Trọng Một dùng để tôn vinh một Trung đội bộ đội địa phương Quận 4 miền Tây Thừa Thiên do A Lơn chỉ huy.

  • Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm, kết thúc bằng Điện Biên Phủ lẫy lừng, chờ tổng tuyển cử sau Hiệp định Genève hai năm mòn mỏi, quân dân ta còn phải trường kỳ kháng Mỹ dài mấy mươi năm.

  • LÊ XUÂN VIỆT 

    Sau ngày miền Nam giải phóng (Xuân 1975) tôi chuyển công tác từ Đại học tổng hợp Hà Nội vào Huế. Ở thành phố đẹp và thơ, đầy mơ mộng này rất hợp ngành văn mà tôi say mê và theo đuổi từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông.

  • PHẠM HỮU THU Nếu không nghe những nhận xét, dù kiệm lời của những vị cựu lãnh đạo địa phương và không trực tiếp kiểm chứng, thú thật là tôi không thể viết về con người này, một con người không chỉ dũng cảm trong chiến đấu mà còn giàu lòng nhân ái đối với đối phương và tận tâm vì nghĩa tình đồng đội. Người đó là ông Lê Hữu Tòng, nguyên Huyện đội trưởng Huyện đội Hương Thủy!


  • Hồng Thế vừa làm thơ vừa cày ruộng ở quê. Cách đây mấy năm, anh có con bò già không cày được nữa, phải bán đi để mua bò mới.

  • TẤN HOÀI        
         bút ký

    Nhà văn Graham Grin có một quyển tiểu thuyết "MỘT NGƯỜI MỸ TRẦM LẶNG".

  • NHẤT LÂM

          Bút ký 

  • NGUYỄN PHÚC ƯNG ÂN
                           Hi ký

    Tôi tỉnh giấc. Ngoảnh sang bên cạnh thấy các bạn đã ngồi dậy. Nằm yên trong bóng đêm, tôi thử tính xem mình đang còn cách Huế mấy cây số.

  • HỮU THU - CHIẾN HỮU
                       Ghi chép

    Cuối năm ngoái, huyện Hương Trà tổ chức khánh thành hồ chứa nước Khe Rưng.

  • THANH THANH

    Thật bất ngờ đọc lại một năm thơ Sông Hương dưới trăng rằm mười bốn chạp rồi ngơ ngẩn bấm đốt tay.

  • HÀ KHÁNH LINH - NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Chuẩn bị ra số kỷ niệm 10 năm giải phóng, Tòa soạn Tạp chí Sông Hương đã có kế hoạch phỏng vấn đồng chí Vũ Thắng, ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, nhưng chương trình làm việc trong tuần của đồng chí văn phòng đã xếp quá chật.

  • PHẠM HUY LIỆU
                     Hồi ký

    Đầu tháng 9/1968 tôi điều trị ở Bệnh viện Binh trạm 34, tỉnh Saravane, Nam Lào. Viện nằm trong thung lũng. Xung quanh nhiều núi cao rừng già nên cũng ít bị máy bay Mỹ quấy nhiễu.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Bắt sáu tên giặc Pháp nhảy dù xuống huyện Phong Điền.
    Ngày 23 tháng 8 năm 1945, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế thắng lợi, chiều cùng ngày, tại Sân vận động Bảo Long (về sau đổi gọi là Sân vận động Tự Do), trước hàng vạn đồng bào dự mít tinh, Ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên được thành lập và ra mắt, do nhà giáo Tôn Quang Phiệt làm Chủ tịch.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Tôi tỉnh giấc khi trời còn tối, nhưng không sao ngủ được nữa. Không phải vì tiếng động của những guồng máy quay, tiếng những vành thép nghiền vỡ vụn đá và cờ-lanh-ke.

  • TRẦN SỬ kể
    HOÀNG NHÂN ghi

    Chiến tranh du kích ở huyện Hương Thủy trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã diễn ra với nhiều hình thức chiến đấu đầy tính chất sáng tạo của toàn dân.

  • NGÔ MINH

    Đối với anh em làm thơ, viết văn ở ba tỉnh Bình - Trị - Thiên trong nhiều chục năm qua, nhà thơ Hải Bằng là người không thể quên! 

  • HỒNG NHU

    Tôi biết anh, đọc anh từ trong kháng chiến chống Pháp, nhưng mỗi người một đơn vị công tác, mãi đến năm 1972 mới gặp nhau. Đó là một ngày mùa hè, bấy giờ Đông Hà vừa mới được giải phóng.