Chuyện ô nhiễm ở chợ Đông Ba trên báo Huế ngày xưa

09:55 05/07/2017

NGUYỄN HOÀNG THẢO

Trước khi có chợ, bên ngoài cửa Ðông Ba (cửa Chánh Đông) dưới thời vua Gia Long có một cái chợ lớn mang tên “Qui Giả thị” - chợ của những người trở về.

Chợ Đông Ba đầu thế kỷ. Ảnh tư liệu

Cái tên này đánh dấu sự kiện trở lại Phú Xuân của nhà Nguyễn và người dân khắp nơi trở về sau loạn lạc. Gần một thế kỷ sau, mùa hè năm 1885, Kinh đô Huế thất thủ, chợ Qui Giả bị giặc Pháp tàn phá. Ðến năm 1887, vua Ðồng Khánh cho xây lại chợ và đổi tên là Ðông Ba. Chợ cung cấp thực phẩm cho cung điện, nhà thương, đồn lính, ký túc xá các trường Quốc Học, Ðồng Khánh, Bình Linh, Thiên Hựu. Năm 1899, trong công cuộc chỉnh trang đô thị, vua Thành Thái cho dời chợ Đông Ba về vị trí hiện nay. Chợ lúc này gồm có 4 dãy quán: trước, sau, phải, trái. Mặt trước một dãy 8 gian, mặt sau một dãy 12 gian, dãy phải 13 gian... đều lợp ngói. Giữa chợ có một tòa lầu vuông, ba tầng, trên có đặt đồng hồ để điểm giờ khắc. Trong chợ xây một giếng đá, có hệ thống máy tay quay, giúp cho việc lấy nước giếng dễ dàng. Ðầu thế kỷ 20, chợ Ðông Ba được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn giữ cốt cách cũ.

Chợ Đông Ba đã đi vào thi ca, nhạc họa từ xưa.

Chợ Đông Ba năm 1923. Ảnh tư liệu


Thế nhưng, chợ Đông Ba vào những năm 1935 - 1936 đã bị ô nhiễm nặng nề và kéo dài, khiến dân chúng bất bình. Việc này đã được báo chí ở Huế phản ánh khá đầy đủ.

Ngày 17/9/1935, báo Ánh Sáng (xuất bản tại Huế, trụ sở tại số 83 đường Gia Long, do ông Nguyễn Quốc Túy chủ nhiệm) số 40, trong chuyên mục “Chung quanh… chuyện Huế” có bài “Rồi đổ tại ông trời”. Bài báo cho biết: chợ Đông Ba lúc đó mỗi ngày có hàng vạn người đến mua bán, có thể sánh ngang với chợ Đồng Xuân (Hà Nội) hay chợ Bến Thành (Sài Gòn). Tuy nhiên chợ bẩn hết sức: “Thì bạn hãy đi dạo qua các hàng coi, hàng tôm hàng cá, hàng rau hàng trái, chỗ nào cũng cả bùn là bùn, từng đàn ruồi xanh bay ra như ai ném những hột đậu xanh vào mình, thiệt là nhớp nhúa quá chừng” .

Một năm sau, ngày 25/9/1936, báo Tràng An số 159 đăng một tờ đơn của một người dân thành phố Huế tên là Nguyễn Đình Nguyên ở đường Gia Hội, “Kính bẩm quan đốc lý thành phố Huế”. Nội dung có nhiều đoạn mô tả cảnh ô nhiễm nặng nề kéo dài ở chợ Đông Ba lúc đó: “Trời mới mưa vài bữa nay mà  trong đình thì nước chảy như ngoài đường, trong  sân thì nước đọng lại như ao hồ lội tới mắt cá chân,  nếu đến mùa mưa lụt thì chắc không họp chợ được  nữa. Người đi buôn bán phải đội nón mà phải bỏ cả  giày, guốc ra, hàng hóa phải che đậy cho khỏi ướt  ẩm, lội trong sân nước bắn vung lên các hàng thành  ra các đồ ăn phải thấm nước bẩn... Thành phố có lệ  cấm dân không được làm nhà tranh, thế mà ở giữa  chợ, quán lá dựng lên khắp sân, mất cả vẻ mỹ quan  mà hại cho vệ sinh... Người đi chợ kiếm mua đủ các  thứ đồ dùng thì thật vất vả mà quần áo bị lấm láp  hết...”. Tờ đơn đề nghị quan đốc lý đi khảo sát và xử  lý thực trạng đáng buồn trên.

Bốn ngày sau, báo Tràng An, số 160 (29/9/1936)  đăng phóng sự để gửi đến quan đốc lý thành phố  Huế, “Tôi đã vào chợ Đông Ba” của nhà báo Thanh  Tuyên. Bài báo có đoạn viết: “Người ta không bao  giờ dám ngờ rằng: Trong lúc kinh thành Huế thay  cũ đổi mới, khoe khoang với Sài Gòn, Hà Nội, những  vườn hoa đồ sộ đẹp đẽ, thì ngay giữa một cái kinh  đô tráng lệ, chợ Đông Ba, chỗ tiêu thụ vật thực  của mọi người, chỉ là mấy cái đình chật hẹp, hôi  hám, bẩn thỉu, thiếu mất cả điều kiện vệ sinh thông  thường”... “Chợ, gồm bốn cái đình, giữa sân là lầu  chuông… Những cái nhà lá xiêu vẹo, lầu chuông thì  dột nát, sân chợ không đủ cống cho nước chảy…  Thế mà hàng nghìn con người ta, quần xăn, áo vén,  lại phải chen nhau, mua, bán, trả réo”. Rồi chợ lại  không có ánh sáng: “Trời sẩm sẩm tối. Đồng hồ  vừa chỉ 5 giờ 15 thì chợ Đông Ba, bấy giờ là một  chỗ chiến trường, họ đang đánh nhau trong một  đêm tối mò tối mịt… Mấy nghìn con người ta chen  nhau không có một ngọn đèn. Người ta còn phải  đợi đèn đường đỏ mới mong trong chợ có chút ánh  sáng - chỉ một chút thôi vì bốn cái đình mà chỉ có  tám ngọn đèn - của khoa học phương Tây. Một cái  chợ lớn nhất Trung kỳ như chợ Đông Ba có được  12 ngọn điện! Họ réo nhau, một mụ già vô ý - hay  là tối tăm - đã bị một lũ ba que đánh cắp hai con  bống. Một cô gái lơ đỉnh, đang níu một thằng oẳn con, rồi la in ỏi: “Ôi phu lít! Ôi bác phu lít ôi,  hắn moi túi tui hết hai đồng bạc. Ừ thì cứ la,  phu lít cứ chạy, họ cứ túm nhau lại, nhưng tôi  đã bảo, tối như ba mươi tết, tôi dám đố một  nhà trinh thám bắt giam cái thằng oẳn con cho  tôi một tí”.

Tác giả miêu tả thêm về cái sự nhơ nhớp  ở hàng thịt, mà tác giả gọi là “hàng ruồi” đến  mức người bạn cùng đi phải chua chát: “Lạy  thánh! Tôi phải về dặn trước mẹ thằng cu ở nhà  mai đừng có đi mua thịt nữa”.  

Nhưng “Ấy thế mà cũng chưa thấy cái đáng  ghê gớm nhất ở chợ Đông Ba”, cái ghê gớm  nhất mà tác giả nói đến đó là cái nhà xí của  chợ. Tác giả tả kinh khủng đến mức chúng tôi  không dám trích ra đây… Chỉ dẫn thêm ở báo  Ánh Sáng nói: “Cái nhà xí ấy là cái lò nấu nước  bông...thúi địt (xin miễn chấp) của thành phố Huế”.

Tác giả cũng đề nghị tiếp một số điều mà tờ đơn  của người dân Nguyễn Đình Nguyên đã nêu: trổ  thêm cống nước chảy trong chợ, đắp cao sân để  tránh nước ứ, làm lưới sắt cho hàng thịt, đặt thêm  đèn điện, sửa lại nhà xí...

Phóng sự này cũng đưa ra một vài con số: “Với  cái chợ Đông Ba, mỗi tháng thành phố Huế thâu  vừa thuế, thuế môn bài trong chợ kể tới 2.000$00,  một năm tổng cộng 24.000$. Chính phủ phải trả  cho một người phu lít gác chợ một năm 240$00.  Bây giờ tôi mới làm thử một con toán trừ. Thì số  tiền còn lại là 23.760$00, tôi tưởng Chính phủ trích  hết ra mà sửa lại những chỗ đáng sửa cũng chưa  thâm đến cái “két” của nhà nước kia mà”.

Sự việc ô nhiễm chợ Đông Ba chưa thấy chính  quyền lúc ấy quan tâm giải quyết thì đã xảy ra một  vụ “làm reo” của tiểu thương chợ Đông Ba. Báo  Tràng An ngày 6/10/1936 thuật lại “Một ngày làm  “reo” lớn tại chợ Đông Ba”: Từ sáng 2/10, các chị  hàng vải ăn mặc đẹp đến chợ nhưng chỉ ngồi “xếp  bè he” chơi chứ không bán. Trong hàng gạo “không  thấy đôi quang gióng nào”. Hàng vặt “coi đến buồn  thiu buồn thắt, “không còn nghe những tiếng kêu  réo chửi rủa của các chị mạnh miệng ở hàng tiêu  ớt”... Thì ra các chị bãi chợ vì thuế quá cao. Bài báo  viết: “Năm ba năm về trước lúc buôn bán thạnh  vượng, một ngày trừ thuế mà họ có thể kiếm năm  bảy giác lời, nhưng bây giờ khác hẳn, suốt ngày hao  cả hơi khan cả tiếng bán nhiều lắm chỉ 3$00, lời độ  0$25 đáng lẽ thuế phải hạ. Chính phủ không nghĩ  đến tình cảnh sinh hoạt khốn khổ của những người  bán thân nuôi miệng nay thình lình thuế chính nạp  của hàng vặt lại tăng lên 0$02. Đấy là chưa kể đến  hàng mắm ruốc tăng một xu, hàng gạo ba xu, hàng  vải hai xu...”.

Cuộc bãi chợ chỉ diễn ra 1 ngày. Hôm sau chợ  lại đông vì người ta còn phải buôn bán độ nhật. Thế  mới biết ngày xưa kinh doanh buôn bán ở chợ Đông  Ba thiệt không dễ chút nào...

N.H.T 
(SHSDB25/06-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.