TRẦN NHUẬN MINH
Ảnh: internet
Đêm chờ nghe
tiếng chuông chùa Hàn San
Vẫn biết chẳng có chùa nào thỉnh chuông lúc nửa đêm
Thành Tô Châu, sương ngang trời, quạnh quẽ
Sông ở ngoài kia, ánh trăng trôi lặng lẽ
Tôi vẫn ngồi chờ nghe một tiếng chuông ngân…
Tiếng chuông vang trong Phong Kiều dạ bạc(*)
Hơn ngàn năm vẫn vọng giữa lòng người
Nửa đêm rồi… tiếng chuông…
tiếng chuông… tiếng chuông …
tiếng chuông xa văng vẳng
Có ai nghe thấy không, hay chỉ một mình tôi?...
Trăng xế ngang đầu, lửa chài đã tắt…
Chao ôi tiếng chuông… tiếng chuông… diệu kỳ sao
Tôi thành người của một ngàn năm trước
Bàng hoàng như sống giữa chiêm bao…
Sông nước có linh hồn, cỏ cây xanh sắc lá
Thành Tô Châu bay bảng lảng sắc trời
Vẫn nghe thấy tiếng chuông… Ánh trăng như sẫm lại
Có ai nghe thấy không?
Có ai nghe thấy không?...
Hay chỉ một mình tôi!...
-------------------------------------
(*) Bài thơ nổi tiếng của Trương Kế, đời Đường, Trung Hoa.
Ngồi chơi giữa sông Tương
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia…
(Truyện Kiều)
Tự ngàn xưa, sông Tương đã nông rồi
Nhưng cạn đến mức này, thì ta không hiểu được
Đi ngang đáy sông mà chân không ướt
Ta ngồi chơi trên tảng đá giữa dòng…
Chàng ở đầu sông, thiếp cuối sông
Cùng uống nước sông… cho nguôi nỗi nhớ…1
Nước sông cạn
Nhưng mối tình vạn thuở
Vẫn thẳm sâu trong mọi cõi lòng người…
Ta ngồi trên tảng đá giữa sông chơi
Tự nhiên hát nghêu ngao…
Tự nhiên rơi nước mắt…
Không lấy được nhau, khổ đau là có thật
Và dòng sông làm chứng đến muôn sau…
Nước mắt khô trong mỗi lòng nhau
Sông đã cạn mọi nỗi đời cay đắng
Ngã tại Tương giang hề…2
Ta ngửa mặt hỏi làn mây trắng:
Dòng sông - nước mắt này…3
Ai đã sinh ra?...
------------------------------
1. Lấy ý từ thơ cổ Trung Hoa.
2. Ta ở sông Tương… phỏng theo thơ cổ Trung Hoa, “ hề” là tiếng đệm.
3. Theo truyền thuyết Trung Hoa, Nga Hoàng và Nữ Anh, hai người vợ yêu của vua Thuấn, nghe tin chồng chết ở đây, đã đến khóc rồi trẫm mình trong nước sông này. Từ đó, nước sông Tương được coi là nước mắt. Truyện Kiều có câu: “Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương” (Nguyễn Du). Cũng từ đó, sông Tương trở thành hình ảnh tượng trưng cho những mối tình dang dở và đau khổ.
(TCSH401/07-2022)
LTS: Với một tờ báo, chắc hẳn niềm vui mừng trước hết là nhận được những bản thảo chất lượng. Nhưng cũng không vì vậy mà chúng tôi không trân trọng những bài viết chưa đạt tới “tiêu chí” Sông Hương. Giới hạn trong lĩnh vực thơ: Có không ít tác giả hầu như tuần nào, tháng nào cũng gửi từ ba bốn bài trở lên. Đều đặn bao nhiêu năm trời như thế, tính ra số thơ mà chúng tôi nhận được của họ đã có thể đóng thành một “tổng tập”. Những trang chữ viết tay, những trang vi tính quen thuộc đến mòn mắt ấy mỗi lần nhận được là chúng tôi lại hồi hộp đọc, để rồi… áy náy!Dưới đây là những bài gần như khá nhất trong số thơ lai cảo của Sông Hương.
Thạch Quỳ - Nguyên Quân - Đông Hà - Kiều Trung Phương - Nguyên Hào - Lê Quốc Hán - Đinh Thu - Hoàng Thị Thiều Anh - Nguyễn Phước Loan
...nghe thanh âm mà không có tiếng ngườisao khép mắt mà không thể chết được...
Từ Nguyên Tĩnh - Lê Huỳnh Lâm - Nguyễn Thiền Nghi - Trần Hữu Lục - Mai Thìn - Cao Hạnh - Văn Công Hùng - Trần Tuấn - Nguyễn Ngọc Phú - Đức Sơn - Trần Vạn Giã - Trần Cao Sơn - Lê Hữu Khoá - Trần Hoàng Phố - Phạm Thị Anh Nga
Đất nước đã vẹn toàn một mối hơn ba mươi năm, song còn đó những nỗi đau âm ỉ, thấm vào cốt xương của thân nhân các thương binh - liệt sĩ, thấm vào máu thịt của những ai từng kinh qua hoặc không kinh qua chiến tranh mà nay đều được hưởng cuộc sống yên bình. Kỷ niệm 60 năm ngày thương binh liệt sĩ(27/7/1947 – 27/7/2007), Sông Hương xin nghiêng mình trước nỗi đau không hề ngẫu nhiên đã thấm vào thơ ấy… *Nguyễn Gia Nùng - Triệu Nguyên Phong - Trần Đức Đủ - Huỳnh Tuấn Vinh
Vân Long là tạng người thơ không chịu cũ. Nhà thơ luôn ý thức được việc làm mới mình để có thể đồng hành với nền thơ đương đại và nhịp thở nóng hổi của cuộc sống thường nhật.Dù là trữ tình tự sự hay nội cảm ngoại quan, thơ Vân Long luôn để lại những dấu ấn sáng tạo - dấu ấn lao động thơ. Vân Long đã từng có duyên với xứ Huế qua “Đêm sông Hương”, “Vườn Huế”... được tuyển chọn trong Tuyển thơ Sông Hương 20 năm...
khi em là vực sâu im lặng tôi pho tượng đá lắng nghe...
...chim chích bay về đăm đắm mắtnghe phế hưng bông lơn ký ức thành xanhrêu...
Nguyễn Văn Quang - Trần Thu Hà - Nhất Lâm - Lê Ngã Lễ - Mai Văn Hoan - Ngàn Thương - Ngô Thị Hạnh - Nguyễn Thánh Ngã - Xuân Thanh - Phan Văn Chương - Thạch Thảo - Trần Đôn - Nguyễn Nhã Tiên - Đoàn Lam - Tiến Thảo - Đoàn Giao Hưởng
...Cả thành phố lúc nào cũng rậm lờiAnh không thấy tấc vỉa hè nào dành cho mình cả...
...họ mơ thấy Hồ Gươmlà một vò rượu lớnbị bỏ quênbên sông Hồng đến cả ngàn năm...
Mai Văn Phấn - Hoàng Chinh Nhân - Lê Huỳnh Lâm - Ngô Thiên Thu - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Hoa - Hoàng Nguyệt Xứ - Lê Hưng Tiến - Phạm Xuân Trường - Ngô Công Tấn - Từ Hoài Tấn - Văn Lợi - Quang Tuyến - Nguyễn Loan - Lê Vĩnh Thái - Vĩnh Nguyên - Hoàng Ngọc Quý
HUỲNH THÚY KIỀUHọ và tên: Huỳnh Thuý Kiều; Cầm tinh con Ngựa - 1978Bút danh: Hoa Đồng Nội. Nơi làm việc: Nhà xuất bản Phương Đông tỉnh Cà MauĐã có tuỳ bút, tản văn, đặc biệt là thơ đăng trên các báo Trung ương và địa phương. http://huynhthuykieu.vnweblogs.com
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOSinh năm: 1979Quê quán: Hà TĩnhTốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Khoa học HuếHiện là biên tập viên tạp chí Đà Nẵng ngày nayhttp://nguyenthianhdao.vnweblogs.com
Trần Thị Huê, sinh năm 1970 ở Hiền Ninh - Quảng Ninh - Quảng Bình. Năm 1997 xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Nhật Lệ với chùm thơ 3 bài Chiều, Đợi, Cỏ xanh. 5 năm sau chị xuất bản tập thơ đầu tay Sóng vọng. Nhưng phải đợi đến những năm gần đây gương mặt thơ chị mới hiển lộ với những đường nét vụt hiện, gấp khúc. Cái - tôi - cá - thể đã làm giàu thêm mục đích và ý nghĩa sáng tạo nghệ thuật.
Bạch Diệp - Vi Thuỳ Linh - Phan Huyền Thư - Phùng Hà - Nguyễn Thị Hợi - Hồng Vinh - Đông Hà - Nguyễn Thị Thái - Hoàng Thị Thiều Anh - Đinh Thị Như Thuý - Nguyễn Thị Thuý Ngoan - Thạch Thảo
...Vắt qua bầu trời mờ cánh chim nhỏVắt ngang dòng sông trổ nụ hồngVắt ngực tình em bay hương cỏVắt suốt mùa đợi một ngóng trông...
Nguyễn Trọng Tạo - Tường Phong - Trần Áng Sơn - Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Hữu Đoàn - Nguyên Quân - Nguyễn Thành Nhân
HÀ NHẬTLTS: Lớp học sinh niên khóa 1964-1967 ở Trường Cấp 3 Lệ Thủy, Quảng Bình 40 năm trước đã sinh ra hàng chục nhà thơ, trong đó có những người đã thành danh như Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty... Công lao bồi dưỡng, vun đắp nên những nhà thơ đó là hai thầy giáo dạy văn cực giỏi: Lương Duy Cán và Phan Ngọc Thu.
...Lão du - già xát đầy mình tro tử thi vừa nguộiƯớp xác phàm bằng hương liệu sắc - không...