Trong căn phòng nhỏ chật kín tài liệu ở một con phố nhỏ tại Hà Nội, Tổng Thư ký Hội Ngôn ngữ học Việt Nam PGS, TS Phạm Văn Tình đã dành thời gian trò chuyện sôi nổi với chúng tôi về hiện tượng “lệch chuẩn” trong sử dụng tiếng Việt của giới trẻ hiện nay. Đây là vấn đề ông rất tâm huyết khi nghiên cứu ngôn ngữ học ứng dụng. Dưới đây là nội dung cuộc trò chuyện.
Xin chúc mừng PGS, TS Phạm Văn Tình vừa đảm nhiệm tốt vai trò chủ trì điều hành tiểu ban “Những vấn đề cơ bản và thời sự về Ngôn ngữ học ứng dụng” trong Hội thảo khoa học quốc tế “Ngôn ngữ Việt Nam 30 năm đổi mới và phát triển”!
Cảm ơn bạn đã quan tâm đến hội thảo khoa học quốc tế vừa rồi. Tiểu ban của tôi có 50 bài nghiên cứu gửi đến, trong đó có 12 báo cáo viên quốc tế, còn lại là các báo cáo viên trong nước. Tiểu ban đã tạo được không khí học thuật chuyên sâu, cởi mở và có ý nghĩa với ngôn ngữ trong thực tiễn đời sống.
PGS, TS Phạm Văn Tình.
Thưa ông, Ngôn ngữ học ứng dụng tập trung vào việc xác định, điều tra và cung cấp các giải pháp cho vấn đề có liên quan đến ngôn ngữ trong thực tiễn đời sống. Vậy, ông đánh giá như thế nào về hiện tượng “lệch chuẩn” trong sử dụng tiếng Việt của giới trẻ hiện nay?
Hiện tượng sử dụng ngôn ngữ mạng (facebook, zalo, blog, gmail…) và tiếng lóng trong giao tiếp của giới trẻ đang là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Có hai luồng ý kiến của dư luận trước hiện tượng trên là chấp nhận và không chấp nhận. Tuy nhiên, đại đa số ý kiến đều phê phán gay gắt những cách sử dụng tùy tiện về ngôn ngữ “thời đại a còng”. Nhưng dưới góc độ của Ngôn ngữ học xã hội thì đây cũng là một vấn đề cần xem xét cẩn trọng hơn. Có những nhân tố mới mà ta phải chấp nhận như một phần tất yếu của ngôn ngữ.
Thực tế, nếu căn cứ vào những cách viết, lối nói được coi là lạ như: 2 e! (chào em!), Mìn k hỉu nủi (Mình không hiểu nổi), 3’ t Hoàn del rùi (Bà thằng Hoàn mất rồi), tình iu (tình yêu), đừng có hồng lâu mộng (đừng có mơ mộng), nó cá chê tao rồi (nó chê tao rồi), hoy (thôi)... để đối chiếu với tiếng Việt toàn dân thì các “tiêu bản” này rõ ràng phải coi là rất “lệch chuẩn”. Chúng chỉ phù hợp khi sử dụng trong phạm vi giao tiếp hẹp, mang tính giải trí đơn thuần của một bộ phận giới trẻ. Việc một cộng đồng nào đó sử dụng một “mã” giao tiếp riêng, không ảnh hưởng đến người khác, không ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục thì đó là quyền của họ. Tuy nhiên, sẽ là đáng báo động nếu được sử dụng nhiều, trở thành thói quen gây ra “nghiện” ngôn từ “lệch chuẩn”. Điều đó dẫn đến việc mất kiểm soát, dùng ngôn ngữ một cách tùy tiện trong văn hóa giao tiếp và ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt.
Vậy đâu là nguyên nhân của hiện tượng trên, thưa ông?
Nguyên nhân thì có nhiều, tôi tóm tắt trong 4 vấn đề như sau:
Thứ nhất, giới trẻ thờ ơ với tiếng mẹ đẻ. Định hướng nghề nghiệp xã hội khiến những môn khoa học xã hội trong đó có môn Văn học và Tiếng Việt không được chú trọng trong một khoảng thời gian dài. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc trau dồi văn hóa, ngôn ngữ truyền thống của dân tộc.
Thứ hai, công nghệ thông tin làm cho mọi chuyện phức tạp hơn. Con người đặc biệt là giới trẻ mất quá nhiều thời gian vào tiện ích của công nghệ thông tin. Chúng ta có thể ngồi nhà mà vẫn giao tiếp, trao đổi, trò chuyện với thế giới mở trên mạng xã hội. Với sự trợ giúp của mạng xã hội, những “lệch chuẩn” tiếng Việt có tốc độ lan truyền nhanh, trở thành những hiện tượng ngôn từ chưa được kiểm duyệt.
Tấm áp phích tuyên truyền bảo vệ sức khỏe người dân được thể hiện bằng song ngữ Việt - Mông tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Ảnh: Nguyên Đức
Thứ ba, một phần không nhỏ giới trẻ coi việc sử dụng những “lệch chuẩn” trong ngôn ngữ là thời thượng, “mốt” ngôn từ. Họ coi đó là cách nói “sành điệu” mang đến sức hút trong cộng đồng giới trẻ.
Thứ tư, vấn đề giáo dục cũng rất đáng lo. Gia đình, nhà trường và xã hội có vai trò định hướng thẩm mỹ trong xử lý vấn đề về ngôn ngữ. Bố mẹ lơ là, sao nhãng, nhà trường không có định hướng tốt, xã hội thả nổi khiến một bộ phận giới trẻ tự do sử dụng ngôn từ trong giao tiếp, không tự định hướng được văn hóa giao tiếp chuẩn mực.
Nếu cần lời khuyên cho giới trẻ trong việc góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, ông sẽ nói gì?
Các bạn trẻ hiện nay rất năng động trong việc sử dụng ngôn ngữ. Những dấu hiệu “lệch chuẩn” trong ngôn ngữ của họ là quy luật chung của ngôn ngữ trên thế giới chứ không riêng gì ở Việt Nam. Nhưng không vì thế mà lạm dụng và sử dụng tùy tiện trong giao tiếp. Một giáo sư đại học ở Ma-ni-la có nói “việc các sinh viên chat bằng jejemon (ngôn ngữ công nghệ) hay nói tiếng lóng với nhau là quyền của họ, miễn là nó đừng ảnh hưởng đến nếp sống văn hóa và chỉ dùng trong bối cảnh riêng. Nó không được sử dụng trong nhà trường và trong các bài thi”. Chúng ta nhai kẹo cao su để giảm stress chứ không nhai để sống. Ngôn ngữ “lệch chuẩn” cũng vậy, các bạn trẻ cần tự ý thức, tiết chế, biết sử dụng một cách hợp lý trong bối cảnh giao tiếp hẹp và đặc biệt không được lạm dụng một cách tùy tiện, vô lối!
Ngoài ý thức của giới trẻ, cũng cần nhắc đến vấn đề giáo dục một cách hệ thống, đồng bộ. Mỗi người thụ đắc ngôn ngữ từ nhỏ, “bé không vin cả gãy cành”, những sai lệch về ngôn từ đến độ trưởng thành sẽ rất khó sửa chữa. Cốt cách của một dân tộc được thể hiện qua “quốc văn, quốc sử, quốc ngữ”, chính vì vậy cần có một chiến lược trong đào tạo ngôn ngữ. Đặc biệt là việc dạy tiếng Việt như thế nào cho phù hợp, đồng thời biết trau dồi văn hóa giao tiếp là một trong những vấn đề cấp thiết trong thế giới hội nhập ngày nay.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
PGS, TS Phạm Văn Tình sinh năm 1954 tại Nam Định. Ông từng công tác tại Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam và hiện nay là Tổng Thư ký Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Phó tổng biên tập Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư. Ông đã công bố 15 cuốn sách, trong đó có chuyên luận Phép tỉnh lược và Ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt (NXB Khoa học Xã hội, 2002).
Theo Nguyễn Đức Hà - Quân Đội Nhân Dân
Ngày 15/10, tại Hà Nội, Bộ VHTTDL đã tổ chức cuộc họp nhằm chuẩn bị cho phiên họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng các danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú (NSND, NSƯT) và danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú (NNND, NNƯT) năm 2018.
Nghệ thuật truyền thống dân tộc như: tuồng, chèo, cải lương, kịch hát dân tộc… đang kêu cứu, vì người xem ngày càng giảm, người theo nghề ngày càng hiếm. Hiện nghệ thuật truyền thống dân tộc đang thiếu hụt trầm trọng lực lượng thay thế trên tất cả các lĩnh vực, như diễn viên, nhạc công, biên kịch, đạo diễn…
Từ góc nhìn của nhà quy hoạch, Giám đốc SLAB, Đại học Nam California (Mỹ), GS. Annette Kim cho rằng, vỉa hè đa chức năng là một phần tạo nên thành phố sôi động, bền vững, đóng góp vào sinh hoạt cộng đồng.
Kết thúc loạt bài này, chúng tôi mong muốn, những nhận thức về văn hóa ngày càng hoàn thiện tiến gần đến giá trị cốt lõi nhất của văn hóa: Hình thành nhân cách con người và cốt cách của một dân tộc, trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng để đất nước phát triển bền vững.
Hiện nay, nguy cơ mai một giá trị truyền thống làng xã rất lớn, ở cả chiều rộng và chiều sâu. Việc bảo tồn các giá trị di sản trong quá trình quy hoạch không gian kiến trúc làng không thể chậm trễ và trì hoãn. Trong đó, bảo tồn thích ứng và phát triển tiếp nối là phương thức mà giá trị tinh thần của di sản được kế thừa, hoàn thiện.
Chỉ đạo nghệ thuật được ví như người giữ lửa, bảo đảm khuynh hướng nghệ thuật, phong cách sáng tạo của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều nhà hát của Hà Nội đang thiếu đội ngũ chỉ đạo nghệ thuật tài năng, chuyên nghiệp, dẫn tới sáng tạo ít mang tính đương thời, chưa có nhiều tác phẩm đỉnh cao có thể cạnh tranh với các loại hình nghệ thuật khác.
Mặt nạ giấy bồi, đèn kéo quân, tàu thủy sắt tây... từng mang lại niềm vui cho biết bao đứa trẻ mỗi độ Tết Trung thu. Nhưng trước sự phát triển của xã hội, những món đồ chơi truyền thống này liệu có cần thay đổi để đáp ứng thị hiếu trẻ nhỏ “thời 4.0”?
Vài năm trở lại đây, thị trường sách thiếu nhi trong nước đã có những chuyển biến với nhiều tín hiệu khởi sắc, nhưng vẫn cần nhiều cú hích để thực sự ổn định.
Dù trẻ con ngày nay ít còn chơi đèn kéo quân nữa, nhưng mỗi mùa Trung thu đến, gần ngày rằm tháng 8, nghệ nhân Vũ Văn Sinh lại cặm cụi làm những chiếc đèn truyền thống để giữ nghề, hoài niệm tuổi thơ và tưởng nhớ tổ tông.
Năm 2018, cải lương đánh dấu sự xuất hiện đúng 100 năm trên mảnh đất Nam bộ. Ngoài vở diễn “Thầy Ba Đợi” tri ân người khai sáng bộ môn nghệ thuật này, bộ phim “Song Lang” cũng ra mắt công chúng để góp thêm tình yêu cho khán giả hôm nay đối với loại hình sân khấu độc đáo trong tâm thức cư dân mở đất. Con đường đã qua của cải lương rất nhiều thành tựu, nhưng con đường phía trước của cải lương cũng không ít thử thách!
Dù còn nhiều khó khăn nhưng giới bạn đọc đang dần tiếp cận và sử dụng những sản phẩm trong cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 để có thể thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận thông tin hữu ích.
Vùng đất phía Tây Hà Nội còn nhiều ngôi đình làng là biểu tượng của vùng xứ Đoài, với những giá trị đặc sắc về kiến trúc và điêu khắc. Tuy nhiên, hiện nay, các ngôi đình này đối diện với nguy cơ xuống cấp và bị hủy hoại. Đã có rất nhiều công trình bị “trùng tu như phá”, gần đây nhất là tại đình Lương Xá, xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa.
Mong muốn nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn lại các nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam, ngày 8-8, Ỷ Vân Hiên với đội ngũ các bạn trẻ chuyên nghiệp, có kiến thức chuyên môn cùng với lòng nhiệt thành, sức sáng tạo mạnh mẽ đã ra mắt tại Hà Nội.
Trong 6 tháng đầu năm 2018, ngành xuất bản đã gây được tiếng vang trong xã hội với nhiều cuốn sách có nội dung tốt, mang tính thời sự... Số lượng xuất bản phẩm vi phạm về nội dung có giảm so với cùng kỳ năm 2017 nhưng vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt để.
Tiếp bước sự sáng tạo với sơn mài của các bậc thầy thời kỳ hội họa Đông Dương, ngày nay nghệ thuật sơn mài đương đại vẫn kế thừa và phát triển với nhiều lối biểu hiện và tìm tòi mới. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả nghệ thuật, nhiều sáng tạo cũng gây tranh luận.
Tính đến thời điểm này, Việt Nam có 12 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh. Thế nhưng, bên cạnh niềm vinh dự thì những danh hiệu cũng đang tạo ra nhiều sức ép không nhỏ với các nhà quản lý văn hóa trong công tác quảng bá, bảo tồn và phát triển.
Tuồng là môn nghệ thuật sân khấu truyền thống độc đáo của dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, cũng giống như những loại hình nghệ thuật truyền thống khác, tuồng đang đứng trước nguy cơ mai một. Ở đó việc bảo tồn để duy trì và phát triển nghệ thuật tuồng đang là “bài toán” không dễ gì tìm được câu trả lời thấu đáo.
“Ok (đồng ý) hay không thì mày nhớ confirm (xác nhận) cho người ta nha”; “giao đứa nào set up (sắp xếp) vụ này ngay và luôn đi chứ hứa rồi bỏ đó không hà”; “go now (đi ngay), mà free (miễn phí) thiệt hả?”; “nay được ở nhà full (cả) ngày”… Đó là vài trong số những câu Tây không ra Tây, ta chẳng ra ta mà giới trẻ Việt đang sử dụng trong cuộc sống hàng ngày.
Mùa World Cup 2018 đang đến những giờ phút cao trào của xúc cảm trong lòng người hâm mộ môn thể thao “vua”. Mỗi trận đấu mang lại nhiều cung bậc tình cảm: hân hoan, hào hứng, thất vọng, buồn khổ... theo từng đường bóng. Trong làng văn cũng có rất nhiều người hâm mộ đang cuồng nhiệt cổ vũ cho đội bóng mình yêu thích, thành thật khóc - cười sau mỗi trận bóng, và cuối cùng là đặt bút... làm thơ.
Chúng ta tưởng rằng, chúng ta tạo ra mạng xã hội là để chúng ta tự do hơn: tự do phát ngôn, tự do thể hiện quan điểm và suy nghĩ của mình, nhưng nhìn những điều đang diễn ra, chúng ta liệu có đạt được tự do thực sự và quan trọng hơn, là tìm kiếm được hạnh phúc?