Báo động sự “lệch chuẩn” tiếng Việt trong giới trẻ

16:10 29/09/2015

Trong căn phòng nhỏ chật kín tài liệu ở một con phố nhỏ tại Hà Nội, Tổng Thư ký Hội Ngôn ngữ học Việt Nam PGS, TS Phạm Văn Tình đã dành thời gian trò chuyện sôi nổi với chúng tôi về hiện tượng “lệch chuẩn” trong sử dụng tiếng Việt của giới trẻ hiện nay. Đây là vấn đề ông rất tâm huyết khi nghiên cứu ngôn ngữ học ứng dụng. Dưới đây là nội dung cuộc trò chuyện.

Xin chúc mừng PGS, TS Phạm Văn Tình vừa đảm nhiệm tốt vai trò chủ trì điều hành tiểu ban “Những vấn đề cơ bản và thời sự về Ngôn ngữ học ứng dụng” trong Hội thảo khoa học quốc tế “Ngôn ngữ Việt Nam 30 năm đổi mới và phát triển”!

Cảm ơn bạn đã quan tâm đến hội thảo khoa học quốc tế vừa rồi. Tiểu ban của tôi có 50 bài nghiên cứu gửi đến, trong đó có 12 báo cáo viên quốc tế, còn lại là các báo cáo viên trong nước. Tiểu ban đã tạo được không khí học thuật chuyên sâu, cởi mở và có ý nghĩa với ngôn ngữ trong thực tiễn đời sống.


PGS, TS Phạm Văn Tình.

PGS, TS Phạm Văn Tình.

Thưa ông, Ngôn ngữ học ứng dụng tập trung vào việc xác định, điều tra và cung cấp các giải pháp cho vấn đề có liên quan đến ngôn ngữ trong thực tiễn đời sống. Vậy, ông đánh giá như thế nào về hiện tượng “lệch chuẩn” trong sử dụng tiếng Việt của giới trẻ hiện nay?

Hiện tượng sử dụng ngôn ngữ mạng (facebook, zalo, blog, gmail…) và tiếng lóng trong giao tiếp của giới trẻ đang là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Có hai luồng ý kiến của dư luận trước hiện tượng trên là chấp nhận và không chấp nhận. Tuy nhiên, đại đa số ý kiến đều phê phán gay gắt những cách sử dụng tùy tiện về ngôn ngữ “thời đại a còng”. Nhưng dưới góc độ của Ngôn ngữ học xã hội thì đây cũng là một vấn đề cần xem xét cẩn trọng hơn. Có những nhân tố mới mà ta phải chấp nhận như một phần tất yếu của ngôn ngữ.

Thực tế, nếu căn cứ vào những cách viết, lối nói được coi là lạ như: 2 e! (chào em!), Mìn k hỉu nủi (Mình không hiểu nổi), 3’ t Hoàn del rùi (Bà thằng Hoàn mất rồi), tình iu (tình yêu), đừng có hồng lâu mộng (đừng có mơ mộng), nó cá chê tao rồi (nó chê tao rồi), hoy (thôi)... để đối chiếu với tiếng Việt toàn dân thì các “tiêu bản” này rõ ràng phải coi là rất “lệch chuẩn”. Chúng chỉ phù hợp khi sử dụng trong phạm vi giao tiếp hẹp, mang tính giải trí đơn thuần của một bộ phận giới trẻ. Việc một cộng đồng nào đó sử dụng một “mã” giao tiếp riêng, không ảnh hưởng đến người khác, không ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục thì đó là quyền của họ. Tuy nhiên, sẽ là đáng báo động nếu được sử dụng nhiều, trở thành thói quen gây ra “nghiện” ngôn từ “lệch chuẩn”. Điều đó dẫn đến việc mất kiểm soát, dùng ngôn ngữ một cách tùy tiện trong văn hóa giao tiếp và ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt.

Vậy đâu là nguyên nhân của hiện tượng trên, thưa ông?

Nguyên nhân thì có nhiều, tôi tóm tắt trong 4 vấn đề như sau:

Thứ nhất, giới trẻ thờ ơ với tiếng mẹ đẻ. Định hướng nghề nghiệp xã hội khiến những môn khoa học xã hội trong đó có môn Văn học và Tiếng Việt không được chú trọng trong một khoảng thời gian dài. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc trau dồi văn hóa, ngôn ngữ truyền thống của dân tộc.

Thứ hai, công nghệ thông tin làm cho mọi chuyện phức tạp hơn. Con người đặc biệt là giới trẻ mất quá nhiều thời gian vào tiện ích của công nghệ thông tin. Chúng ta có thể ngồi nhà mà vẫn giao tiếp, trao đổi, trò chuyện với thế giới mở trên mạng xã hội. Với sự trợ giúp của mạng xã hội, những “lệch chuẩn” tiếng Việt có tốc độ lan truyền nhanh, trở thành những hiện tượng ngôn từ chưa được kiểm duyệt.


Tấm áp phích tuyên truyền bảo vệ sức khỏe người dân được thể hiện bằng song ngữ Việt  - Mông tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Ảnh: Nguyên Đức

Tấm áp phích tuyên truyền bảo vệ sức khỏe người dân được thể hiện bằng song ngữ Việt  - Mông tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Ảnh: Nguyên Đức

Thứ ba, một phần không nhỏ giới trẻ coi việc sử dụng những “lệch chuẩn” trong ngôn ngữ là thời thượng, “mốt” ngôn từ. Họ coi đó là cách nói “sành điệu” mang đến sức hút trong cộng đồng giới trẻ.

Thứ tư, vấn đề giáo dục cũng rất đáng lo. Gia đình, nhà trường và xã hội có vai trò định hướng thẩm mỹ trong xử lý vấn đề về ngôn ngữ. Bố mẹ lơ là, sao nhãng, nhà trường không có định hướng tốt, xã hội thả nổi khiến một bộ phận giới trẻ tự do sử dụng ngôn từ trong giao tiếp, không tự định hướng được văn hóa giao tiếp chuẩn mực.

Nếu cần lời khuyên cho giới trẻ trong việc góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, ông sẽ nói gì?

Các bạn trẻ hiện nay rất năng động trong việc sử dụng ngôn ngữ. Những dấu hiệu “lệch chuẩn” trong ngôn ngữ của họ là quy luật chung của ngôn ngữ trên thế giới chứ không riêng gì ở Việt Nam. Nhưng không vì thế mà lạm dụng và sử dụng tùy tiện trong giao tiếp. Một giáo sư đại học ở Ma-ni-la có nói “việc các sinh viên chat bằng jejemon (ngôn ngữ công nghệ) hay nói tiếng lóng với nhau là quyền của họ, miễn là nó đừng ảnh hưởng đến nếp sống văn hóa và chỉ dùng trong bối cảnh riêng. Nó không được sử dụng trong nhà trường và trong các bài thi”. Chúng ta nhai kẹo cao su để giảm stress chứ không nhai để sống. Ngôn ngữ “lệch chuẩn” cũng vậy, các bạn trẻ cần tự ý thức, tiết chế, biết sử dụng một cách hợp lý trong bối cảnh giao tiếp hẹp và đặc biệt không được lạm dụng một cách tùy tiện, vô lối!

Ngoài ý thức của giới trẻ, cũng cần nhắc đến vấn đề giáo dục một cách hệ thống, đồng bộ. Mỗi người thụ đắc ngôn ngữ từ nhỏ, “bé không vin cả gãy cành”, những sai lệch về ngôn từ đến độ trưởng thành sẽ rất khó sửa chữa. Cốt cách của một dân tộc được thể hiện qua “quốc văn, quốc sử, quốc ngữ”, chính vì vậy cần có một chiến lược trong đào tạo ngôn ngữ. Đặc biệt là việc dạy tiếng Việt như thế nào cho phù hợp, đồng thời biết trau dồi văn hóa giao tiếp là một trong những vấn đề cấp thiết trong thế giới hội nhập ngày nay.

Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!

 

PGS, TS Phạm Văn Tình sinh năm 1954 tại Nam Định. Ông từng công tác tại Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam và hiện nay là Tổng Thư ký Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Phó tổng biên tập Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư. Ông đã công bố 15 cuốn sách, trong đó có chuyên luận Phép tỉnh lược và Ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt (NXB Khoa học Xã hội, 2002).

 

Theo Nguyễn Đức Hà - Quân Đội Nhân Dân

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Chúng ta tưởng rằng, chúng ta tạo ra mạng xã hội là để chúng ta tự do hơn: tự do phát ngôn, tự do thể hiện quan điểm và suy nghĩ của mình, nhưng nhìn những điều đang diễn ra, chúng ta liệu có đạt được tự do thực sự và quan trọng hơn, là tìm kiếm được hạnh phúc?

  • Mấy chục năm qua, phê bình luôn được coi là khâu yếu nhất của nền văn nghệ. Nhẹ thì cũng là chưa theo kịp sự phát triển của phong trào sáng tác, không cắt nghĩa được sự phức tạp của các hiện tượng văn nghệ…

  • Có thể đội tuyển Nhật Bản không vô địch World Cup 2018 nhưng các cổ động viên của họ đã vô địch trên khán đài khi để lại ấn tượng đẹp về ứng xử cũng như hành động dọn sạch rác khu vực ghế ngồi.

  • Là một nghề gắn với viết lách, chữ nghĩa nên không có gì lạ khi nhiều nhà báo viết sách. Nhưng bản chất nghề báo là công việc liên quan đến thông tin nên sách của nhà báo ngoài sự đa dạng còn có một đặc thù riêng là luôn gắn với dòng chảy của thời sự, nhất là dòng thời sự liên quan đến chuyên môn của từng người.

  • Tạo tác và sử dụng mặt nạ là nét văn hóa vẫn sống động ở vùng Eo biển Torres của Australia. Những kiến thức lịch sử chứa đựng bên trong khiến chúng được mang đi trưng bày khắp thế giới. Nhưng điều đáng nói còn là câu chuyện ứng xử với truyền thống nơi đây.

  • Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hơn nữa nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân trong việc chung tay xây dựng lễ hội; tăng cường công tác phối hợp với các tỉnh tham gia tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương-Lễ hội Đền Hùng hằng năm. 

  • Trước giá trị di sản và thách thức do biến tướng, thương mại hóa trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ, series phim Mẹ Việt - Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã chính thức ra mắt cuối tuần qua. Theo bà Đàm Lan, Chủ nhiệm dự án phim, mỗi thước phim là hành trình lắng đọng tâm thức, tìm về văn hóa truyền thống, tín ngưỡng nội sinh của dân tộc Việt.

  • Với những thay đổi về ưu đãi tuyển sinh, mùa tuyển sinh 2017-2018 số lượng học sinh, sinh viên thi vào ngành Âm nhạc dân tộc (ANDT) cũng tăng hơn những năm trước. Đây là tín hiệu mừng của sự thay đổi hợp lý ở khâu tuyển sinh cho các ngành “hiếm muộn”.

  • Nói đến nạn sách lậu, ai cũng biết vì đây là câu chuyện “xưa như Trái Đất.” Xong dường như câu chuyện xưa cũ này càng ngày càng dài, nội dung, tình tiết càng phức tạp và làm “phiền lòng” không chỉ cộng đồng yêu sách mà cả các cơ quan chức năng.

  • Tại hội thảo khoa học chuyên đề “Những tinh hoa sân khấu cải lương thể hiện qua các vai diễn về đề tài lịch sử” vừa tổ chức tại Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh TPHCM, những nghệ sĩ, nhà giáo, nhà lý luận phê bình sân khấu kỳ cựu, đều có chung nhận định: “Cải lương không thể chết!”.

  • “Ký ức Hội An” - chương trình biểu diễn thực cảnh hoành tráng trên một sân khấu mới được xây dựng rất quy mô tại cồn bắp Cẩm Nam (cồn Ga Mi), sông Hoài, TP Hội An đang vấp phải phản ứng của người dân, nhà nghiên cứu và những người yêu mến phố cổ này. Một lần nữa, câu chuyện về xung đột giữa bảo tồn và phát triển lại được đặt ra, mà nguyên nhân chính là không tôn trọng văn hóa bản địa.

  • Khi nhắc tới sân khấu kịch, người ta thường nghĩ tới ánh hào quang, trang phục lộng lẫy và hóa trang cầu kỳ. Thực tế, nghệ thuật kịch có thể được ứng dụng hiệu quả trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục, qua đó kích thích các khả năng tiềm ẩn của học sinh.

  • “Thời gian gần đây, việc xây dựng, trưng bày tượng, biểu tượng có nội dung và hình thức không phù hợp với văn hóa Việt Nam tại một số cơ quan, đơn vị, khu du lịch và địa điểm công cộng, tác động không tốt đến môi trường văn hóa, thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng và xã hội.”

  • Xả rác bừa bãi nơi công cộng; đua xe, lạng lách; văng tục, chửi thề; chen lấn, xô đẩy khi tham gia các dịch vụ công cộng; phá hoại, bôi bẩn các công trình công cộng;…là những hình ảnh xấu xí của không ít người trẻ hiện nay, và trở thành nỗi trăn trở của nhiều lãnh đạo TP HCM trong quá trình xây dựng nếp sống văn minh đô thị.

  • Các công trình nghệ thuật công cộng là thành phần không thể thiếu trong quy hoạch và kiến trúc của một đô thị hiện đại. Thế nhưng “ranh giới” trong quan điểm, nhận thức tạo hình mỹ thuật cùng với tâm lý sính ngoại đã ít nhiều làm không gian công cộng biến dạng.

  • Ai đó nói, thời buổi giờ chỉ có ngành du lịch tâm linh, hay kinh doanh tâm linh là ăn nên làm ra, bỏ ra một đồng tức khắc có bốn đồng chảy ngược vào túi. Mà là tiền tươi, thóc thật, là tiền sạch nói như ngôn ngữ thời thượng - đồng “tiền hữu cơ”.

  • Ngày nay bất kì sự sáng tạo nghệ thuật ở phân mảnh nào cũng bắt đầu bằng tiền và kết thúc bằng tiền theo quy luật thị trường.

  • Năm hết. Tết đến. Người ta đôi khi chạnh lòng nghĩ “nên làm gì?”.

  • Do đời người có hạn, không ai có thể “trường sinh bất tử” nên có thể nói “quỹ thời gian” mỗi con người có giá trị cao nhất. Thời gian quy định sự sống của con người, buộc mỗi người phải biết sống. Người biết sống chính là người biết “sống nhanh, sống chậm”.

  • Có những thứ sẽ dần trôi tuột theo năm tháng, guồng quay của cuộc sống hiện đại có thể đã làm biến đổi phần nào giá trị của Tết. Nhưng nếu biết lắng lại, nghĩ khác đi thì Tết dường như vẫn luôn vẹn nguyên trong tâm thức mỗi người.