PHAN THANH BÌNH
Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, từ Âu châu đến Á châu đã ghi nhận nhiều hoàng đế từng cầm bút vẽ, nặn tượng và không ít bảo tàng mỹ thuật ở các quốc gia có lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật mà tác giả là những vị vua danh tiếng.
Vua Hàm Nghi bên giá vẽ - Ảnh: tư liệu
Trung Hoa có nhiều vị vua là nhà thư họa, một trong số đó gần đây được nhà nước trưng bày cả một phòng tranh cùng thư pháp là vua Minh Tuyên Tông (1399 - 1435) đời nhà Minh. Thái Lan có bảo tàng riêng về tác phẩm nghệ thu- ật của các hoàng gia với tranh của nhiều nhà vua qua nhiều triều đại. Với vua Hàm Nghi (1871 - 1944) khi phong trào Cần vương thất bại, ông bị pháp bắt và lưu đày ở Algerie, tại đây nhà vua đã học vẽ với ý thức ban đầu là để giải trí nơi đất khách quê người. Nhưng nghệ thuật là điều gì đó luôn đem lại sự kỳ diệu, ở Algerie vua Hàm Nghi đã học vẽ ở xưởng chuyên nghiệp của họa sĩ Maurius Reynaud (1860 - 1935), sau này qua Pháp học điêu khắc với nghệ sĩ danh tiếng Rodin (1840 - 1917) và tự nghiên cứu, tìm tòi và sáng tạo. Với một tâm hồn Việt ở chốn lưu đày (nói theo lời dẫn của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân), nhà vua rõ ràng đã vẽ tranh, làm tượng không chỉ là giải trí. Trong mỗi tác phẩm của vua Hàm Nghi, chúng ta nhận ra những cái riêng rất đáng ngạc nhiên và những thành công như một họa sĩ đã trải qua khổ luyện chuyên môn cơ bản, tích lũy kinh nghiệm nghệ thuật nhiều năm. Hơn thế, trong mỗi tác phẩm hội họa của nhà vua, ta nhận ra một nguồn mỹ cảm tạo hình lay động và các yếu tố, thuộc tính ngôn ngữ, thủ pháp sáng tạo mang tính hiện thực sâu sắc.
![]() |
Tác phẩm Không đề (sơn dầu, 1900) |
Nhìn tổng quát, bút pháp - phong cách sáng tạo của họa sĩ - nhà vua Hàm Nghi là theo chủ nghĩa hiện thực, trường phái hướng sự chú ý của các họa sĩ tới tầng lớp trung lưu và tầng lớp lao động, với bối cảnh là cuộc sống thường ngày, xuất hiện từ sau cuộc cách mạng tư sản Pháp vào năm 1848 mà họa sĩ G.Courbet (1817 - 1877) là thủ lĩnh của phong trào. Khuynh hướng hiện thực cho đến cuối thế kỷ 19 vẫn chiếm một vị thế đáng kể trong mỹ thuật Pháp nhưng nó mang hơi thở mới của tinh thần của chủ nghĩa Ấn tượng và Hậu Ấn tượng với những tên tuổi mà vị vua An Nam xa xứ rất ngưỡng mộ như Gauguin (1848 - 1903), Cezanne (1839 - 1906), Van Gogh (1853 - 1890). Nhìn những dãy núi, rừng cây, con đường trong tranh Không đề1 (Sơn dầu, 1900) của vua Hàm Nghi, ta nhận rõ sự hướng về hiện thực rất đỗi thân quen, yếu tố thẩm mỹ về thiên nhiên trong tranh của nhà vua có những nét gần gũi với tranh của danh họa Cezanne của mấy chục năm trước, với những dãy núi nhấp nhô và rặng cây khỏa lấp.
![]() |
Tác phẩm Không đề (sơn dầu, 1900) |
Đó là một hiện thực tự tâm, cùng cách lựa chọn để biểu lộ, giải bày hay giấu kín những suy tư kín lặng nào đó trong tâm hồn của vị vua An Nam nơi trời mây xa cách. Đó là một mỹ cảm nghệ thuật được thể hiện qua những tác phẩm đầy tâm trạng, hoài lắng và không sao giấu kín bởi nó hiện ra quá mãnh liệt, xúc cảm. Vua Hàm Nghi chịu ảnh hưởng của chủ nghệ thuật hiện thực Pháp vào cuối thế kỷ 19 trong hội họa và điều đó trong một hoàn cảnh đặc biệt lại tạo nên tính tương đối ổn định, mang mỹ cảm nội tại, phản ánh thời đại, tư tưởng xã hội, thẩm mỹ rất đặc trưng của nghệ sĩ - nhà vua An Nam ở chốn lưu đày. Mỹ cảm ấy mang sắc thái phương Đông đậm nét với những dằn vặt nội tâm bức bách khác đã hiện ra ở mỗi tác phẩm nghệ thuật.
Đời sống xã hội là thực tại trong sắc màu hiện thực được nhận diện trong tranh của vua Hàm Nghi, chúng xuất hiện bởi nguồn mỹ cảm sâu lắng, nén lặng nỗi niềm và tụ hội nên tính thẩm mỹ độc đáo, riêng biệt trong tranh với sự chân thực mà đầy ám ảnh, suy tư. Đó cũng là nét điển hình của mỹ cảm về hiện thực mang dấu ấn tâm lý, cũng là một cách mô tả trực tiếp, hình ảnh thực tế cuộc sống và giải bày thế giới nội tâm của người nghệ sĩ, của vị vua giàu lòng ái quốc một cách đa diện, sinh động. Vua Hàm Nghi mô tả hiện thực quanh ông, từ cận cảnh đến sự vật, cảnh vật xa mờ, hun hút mà xao động. Vua Hàm Nghi học vẽ, làm tượng nhưng rõ ràng ông không sa vào học thuyết nghệ thuật hiện thực một thời là vẽ theo lối thể hiện, phơi bày thực tại, hay sự cảm nhận, đồng cảm trước những nhọc nhằn của những người lao động, nghèo khó, bất hạnh. Vua hàm Nghi chú tâm vào tính hiện thực tâm lý, ông thể hiện khả năng diễn tả chiều sâu tâm trạng con người bằng ngôn ngữ tạo hình đặc trưng của bút pháp tạo hình hiện thực chân thành và đầy lay động. Ngay cả những bức tranh thuần túy phong cảnh, vua hàm Nghi cũng không thoát khỏi sự vương vấn trước hồn khí của cảnh vật, ông tìm cách làm cho chúng rung rinh, lay động và dường như giàu cảm xúc hơn. Nhà vua - họa sĩ Hàm Nghi đã biểu lộ một tâm hồn sâu nặng nỗi niềm không dấu nổi của người vẽ, nó níu chặt bởi sự khảng khái, tự tôn nhưng tranh không vì vậy mà làm mất đi sự lãng mạn. Những phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ của một đất nước xa xôi, của những vùng đất lạ mà vẫn ẩn dấu và chứa đựng tình cảm và nét văn hóa riêng biệt, gợi nhớ quê hương nước Việt ngàn dặm xa cách. Một số tác phẩm vẽ cảnh vật, sinh hoạt có điểm người hiếm hoi của vua Hàm Nghi cho thấy ông khó hòa hợp với góc nhìn mỹ cảm cận cảnh, thậm chí còn tỏ ra có lúng túng đôi chút về hình và bố cục khi góc nhìn quá gần, quá trực diện. Điều này thấy rõ trong tranh vẽ cảnh nhóm người lợp mái, làm việc nhà mang tên Không đề (1930) và đó có lẽ là một trong những tác phẩm hội họa được nhà vua sáng tác khác lạ nhất. Nó gợi lên sự gắn bó và nỗi lòng da diết nhớ nhung khó tả, một bức tranh phong cảnh đầy trữ tình, ẩn dấu trong đó là nỗi niềm với quê hương xa cách của họa sĩ. Bên trong những bức tranh phong cảnh hiện thực đầy tình cảm của họa sĩ là một dấu ấn tâm hồn phương Đông, hồn Việt đậm nét đáng trân trọng.
Hội họa của vua Hàm Nghi hình thành ở phương trời xa, nhưng lối tạo hình dung dị, tả thực, dễ hiểu gần gũi với bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam đương thời. Dù vẽ biển động, sóng lừng hay rừng cây úa vàng, những cây cổ thụ đơn độc nhưng tất cả đều hiện lên ánh sáng trong trẻo của dòng ký ức phương Đông. Vua Hàm Nghi có lẽ không nghĩ từ khi nào đó ông đã là một nghệ sĩ đích thực, nhưng nhà vua biết rõ ông đã phản ánh và thể hiện tình cảm dân tộc một cách chân thành như một sự vốn có tự nhiên và lắng sâu máu thịt trong ông.
![]() |
Tác phẩm Cây Ô liu cổ (sơn dầu, 1905) |
Tranh Cây Ô liu cổ (1905), với bao ẩn dấu kín đáo nỗi buồn xa vắng, u uẩn với vệt nắng vàng xứ người lại vẫn đầy sự liên tưởng về cánh đồng lúa vàng xứ An Nam quê nhà trong lối tạo hình hiện thực. Với một góc nhìn đậm đặc mỹ cảm hiện thực mang sự gợi nhớ phương Đông, vua Hàm Nghi có lẽ là người Việt đầu tiên vẽ tranh theo bút pháp hiện thực liên tưởng này, điều mà 20 năm sau khi Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ra đời vào năm 1925, chúng mới xuất hiện ở nước ta và nhiều năm tiếp theo trở nên quen thuộc trong tranh của các hoạ sĩ Việt Nam đến mức được coi là một “style” của họa sĩ An Nam bấy giờ.
![]() |
Tác phẩm Không đề (sơn dầu 1889) |
Bút pháp và phong cách sáng tác hội họa của vua Hàm Nghi thể hiện ông nắm chắc kỹ thuật biểu đạt để tạo nên tác phẩm theo một cách khác biệt, với cách nhìn không theo lối mòn để tìm kiếm sự toàn vẹn và thống nhất từ tâm tưởng đến nghệ thuật biểu tả. Bức Không đề (Sơn dầu, 1889) là một hình thức bố cục đầy sáng tạo, có những vệt bút dày đặc, nhấn mạnh, tương phản, bao hàm cả quan điểm của họa sĩ về bản chất tả thực của nghệ thuật hiện thực mới. Độc đáo, cá tính và coi trọng tinh thần ẩn kín bên trong mỗi tác phẩm nghệ thuật, vua Hàm Nghi với tư cách là họa sĩ đã tạo ra những yếu tố thẩm mỹ đặc trưng cho hội họa của mình và nhờ vậy chúng đã được nhận diện bởi đó là những thuộc tính không thể nhầm lẫn vào những cái khác. Trong nhiều bài viết, các nhà nghiên cứu để ý rất nhiều đến tranh Chiều tà (Sơn dầu, 1915), với sự lay động bởi những màu sẫm níu kéo hàng cây xanh đậm, lặng lẽ trầm mặc và khoảng không gian sáng cam vàng le lói, phớt tím của nắng chiều u hoài, tĩnh lặng. Bức tranh này là một trong những tác phẩm ghi nhận sâu sắc dấu ấn của chủ nghĩa Hậu Ấn tượng rõ nét, với tính hiện thực chân phương và không dấu nổi sự lắng đọng, suy tư, buồn vắng, đơn độc của tác giả.
![]() |
Tác phẩm Chiều tà (sơn dầu, 1915) |
Đa số tranh của vua hàm Nghi đều có những điểm nhìn lạ và khác biệt, đôi khi là rất riêng như kiểu nhìn tự tâm ảo ảnh, thực hư đan xen và làm ta dễ liên tưởng đến “Sắc sắc không không” trong triết lý Phật giáo. Trong tranh Vách đá Port-Blanc (St-Lunaire) (Sơn dầu, 61 x 50cm, 1912), vua Hàm Nghi thể hiện vị trí của người vẽ có tầm nhìn rộng để có thể làm chủ cái nhìn, quan sát môt khung cảnh đẹp rộng lớn của một cảng biển ở nước Pháp. Họa sĩ như một kỵ sĩ cưỡi ngựa trên đỉnh non cao nhìn không gian xa rộng trãi dài như vô tận. Tranh Algerie (Sơn dầu, 1900) và Phong cảnh (Sơn dầu, 1903) của vua Hàm Nghi lại cho ta thấy ông đã có góc nhìn chân trời từ nhiều phía và kéo mắt người xem đến mặt phẳng trọng tâm của bức tranh theo luật thấu thị giản đơn nhất. Đó là một đặc trưng, dấu nét không thể thiếu của hội họa hiện thực mà với tâm hồn trĩu nặng nỗi niềm và đa cảm, vua Hàm Nghi trong sự tập trung cao độ tâm trí sáng tạo của người họa sĩ đã chạm vào nghệ thuật hiện thực với tất cả sự say mê và xúc cảm.
![]() |
Tác phẩm Algerie (sơn dầu, 1900) |
Thổi vào tranh nổi buồn cố quốc và những tâm tư trĩu nẵng vấn vương, nhưng vua Hàm Nghi chưa một lần nào vì nặng tình mà tự làm tổn thương tình cảm dân tộc. Là vị vua đã mất ngai vàng, đất nước lầm than, với nhà vua khi ấy hội họa là cứu cánh, là nơi có thể giải tỏa bao bức bối bấy lâu nay nén chặt trong lòng. Đó là một cách hiểu, một nguồn mỹ cảm mà nhờ vậy chúng ta hiểu hơn về vị vua mà người dân Việt luôn yếu mến, tự hào, hiểu về thế giới nội tâm qua những tác phẩm hội họa chứa đầy nỗi niềm của một vị vua yêu nước, một nhân vật lịch sử lớn, một nhân cách văn hóa cao cả, sáng ngời trong buổi thoái trào đầy bi kịch của nhà Nguyễn.
P.T.B
(TCSH390/08-2021)
------------------------
1. Tranh in trong bài dẫn từ nguồn Internets và nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cung cấp.
TUỆ NGỌC
TUỆ NGỌC
LÊ HUỲNH LÂM
"Nghệ thuật không phải là vẽ lại các đồ vật, con người mà họa sĩ thấy. Nghệ thuật phải là sáng tạo nên các đồ vật, con người không thấy được."(Paul Klee)
LÊ HUỲNH LÂM
Tánh nước vốn vô hình và mềm mại. Nhưng nước lại có quyền năng biến hiện và tùy duyên hóa thân thành mọi vật, có khi là đám mây, khi là cơn mưa, có khi làm ngọn sóng cao vút nhấn chìm mọi vật, có lúc là những đợt sóng êm đềm, là dòng sông, con suối, là thác ghềnh, là biển cả bao la,... lại có khi là giọt lệ trên khóe mắt con người. Tuy nước rất mềm mại nhưng sức mạnh của nước có thể xô ngã mọi tượng đài tưởng chừng là thường hằng ở mặt đất này.
LÊ HUỲNH LÂM
Sản phẩm từ cái khuôn mẫu đầu tiên đã đặt định con người trong thế bị động, và từ khởi thủy đầy hư cấu và huyền thoại đó bao nhiêu trí tưởng tượng đã được tạo dựng, việc chế tác một khuôn mẫu mới cho con người đã được đề cập đến nhiều lần.
Nhiều điều bí ẩn giấu đằng sau những chi tiết có thể nhìn thấy bằng mắt thường trong bức tranh "Susanna and the Elders" (Susanna và các Trưởng lão) của họa sỹ nổi tiếng thế giới người Hà Lan Rembrandt van Rijn vừa được công bố trên tạp chí Khoa học Vật liệu và Chế tạo số ra mới đây.
Các tác phẩm chọn lọc của thế hệ các nghệ sỹ trẻ Đức sẽ được quy tụ và giới thiệu đến công chúng thủ đô Hà Nội trong không gian triển lãm “Hội họa mới từ Đức,” khai mạc vào 17 giờ ngày 14/05 và trưng bày tới hết ngày 31/05, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 66 Nguyễn Thái Học.
LTS: Họa sĩ Lê Bá Đảng sinh ngày 27/6/1921 tại làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông đã ra đi vào ngày 7/3 tại Thủ đô Paris nước Pháp, để lại dự án dang dở đáng tiếc về “một bức tranh rất lớn nằm ngửa trên mặt đất”, ước mong góp phần cho Huế trở nên một Kinh đô Mỹ thuật.
Sông Hương giới thiệu “lời chia buồn sâu sắc” đọc trong Lễ tưởng niệm họa sĩ Lê Bá Đảng của tỉnh Thừa thiên Huế vào chiều 9/3 tại Trung tâm Nghệ thuật mang tên ông.
Đối với họa sĩ, để đi đến trừu tượng hay trạng thái “không gì cả”, anh ta đã phải cần đến rất nhiều thứ.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Van Gogh của David Haziot, Phan Hồng Hạnh chuyển ngữ, Nxb. Đà Nẵng, 2014)
...Nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa ảo giác (illusionist) đều xem nhẹ phương tiện, chúng dùng nghệ thuật để che giấu nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện đại lại dùng nghệ thuật để thu hút sự chú ý vào nghệ thuật.
“Từ mô phỏng đến phá hủy tự nhiên”: đây hoàn toàn có thể là nhan đề của một lịch sử nghệ thuật phương Tây. Một trong những nghệ sĩ hiện đại quan trọng nhất, và cũng có lẽ hiền minh nhất, Picasso, có nói: nếu chúng ta không thể thoát khỏi tự nhiên, như một số nghệ sĩ tiền bối và đương thời với ông đang cố gắng một cách vô ích, thì ít nhất chúng ta có thể làm biến dạng nó, phá hủy nó. Về cơ bản, đó chính là một hình thức mới của lòng sùng kính tự nhiên...
Năm mới là thời điểm của những tiệc tùng liên miên. Hội họa từ lâu đã rất quan tâm tới chủ đề này. Hãy cùng nhìn lại những bữa tiệc linh đình, nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa.
Trong tiếng Hy Lạp cổ, từ chỉ “nghệ thuật” là techne, chính là nguồn gốc của các từ technique (kĩ thuật) và technology (công nghệ) - những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong cả ngành khoa học và nghệ thuật. Nhìn vào hội họa thế kỷ 19, ta nhận thấy các họa sĩ thực sự là những kỹ sư ánh sáng và màu sắc tài tình.
Một ngày nọ, khi vẽ một thiếu nữ, tôi chợt nhận ra điểm duy nhất sống động ấy là ánh nhìn như bất động của nàng. Những thứ còn lại có ý nghĩa không hơn gì cái sọ người. Người ta luôn muốn tạc nên một con người sống, nhưng điều khiến pho tượng ấy có sự sống chỉ có thể là ánh nhìn của người đó.
Các nghệ sĩ nữ thường là bộ phận ngoại vi trong những mô tả về tiến trình lịch sử, không chỉ của hội họa mà còn của nhiều loại hình nghệ thuật khác. Nhưng thực sự chính từ những nghệ sĩ nữ, những ý tưởng nghệ thuật táo báo, đột phá nhất, gây ảnh hưởng lớn thường được khai sinh. Ba nghệ sĩ nữ được giới thiệu trong chùm bài viết này đã cho thấy sự trực cảm, tinh nhạy và quyết liệt ở họ đã mở ra những cách tiếp cận nghệ thuật bất ngờ và giàu sức sống cho đến tận bây giờ.
Sau nhiều thập niên tồn tại vô danh, La Bella Principessa đang trải nhiều công đoạn đánh giá phức tạp nhằm xác định liệu nó là tác phẩm mất tích của Leonardo da Vinci hay chỉ là kẻ mạo danh.
Vào những năm 1970, bức tranh sơn dầu (về sau được gọi tên là Bình văn) được tìm thấy trong ngôi nhà của một người dân ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Bức tranh được cho là do Lê Văn Miến (Lê Huy Miến), họa sĩ Tây học đầu tiên người VN, vẽ nên nhưng một số phát hiện vừa qua lại dấy lên giả thiết mới.
Tôi quen với họa sĩ trẻ Nguyễn Văn Hè từ những năm anh còn là sinh viên trường Đại học Nghệ thuật Huế. Cà phê vỉa hè ở đường Phạm Hồng Thái là nơi chúng tôi thường gặp gỡ chuyện trò vào những chiều cuối tuần. Hè có một đời sống nội tâm hết sức mạnh mẽ nhưng ứng xử vô cùng nhẹ nhàng và kín đáo.
Tuần này, Phòng trưng bày Quốc gia London (Anh) sẽ triển lãm một bức chân dung mới được phục chế của danh họa Hà Lan Rembrandt. Điều thú vị là dưới các lớp sơn của tranh, người ta còn tìm thấy một bức chân dung khác, đã bị Rembrandt loại bỏ.