Tượng, dòng sông và những tấm lòng...

10:39 10/08/2009
HẠNH NHITrắng và xanh. Xám và nâu. Xù xì hay trơn nhẵn. Cao lớn hay xinh xắn. Dễ gần và khó hiểu... Ngoại trừ những cảm nhận bề mặt, không phải ai cũng có thể hiểu được sự biểu đạt ngôn từ của đá mà các nhà điêu khắc gửi gắm. Nhưng kể từ khi Huế có sự xuất hiện những ký hiệu và ẩn ngữ của đá, sông Hương cũng thao thiết và dùng dằng hơn cái dùng dằng, thao thiết đã có trước khi xuôi chảy...

Thú vị quá, sông Hương. Đó là điều mà hầu như các nhà điêu khắc đã nói khi có mặt tại Huế mùa đông năm 1998. Thoạt tiên đó là sự thân thiết dịu dàng và vẻ lặng lẽ nhu mì cũng như màu nắng diệu vợi giữa những mênh mang xanh. Rồi những cơn mưa bất chợt và rả rích. Rồi sông Hương gồng mình chở lũ. Công việc liên tục bị gián đoạn. Những nhà điêu khắc nói bằng nhiều thứ tiếng khác nhau ngồi trong mái quán cà phê đã bắt đầu trở nên dã chiến trước công viên Trường Quốc Học. Những bộ trang phục xanh công nhân trên người họ liên tục sũng ướt. Nhưng câu chuyện chẳng vì thế mà kém phần rôm rả. Tiếng Anh và tiếng Pháp. Những đôi tay chuyển động khi chuyện trò. Điêu khắc và Huế đã trở thành ngôn ngữ chung nối họ bên nhau.

Đó là lần đầu tiên, 16 nhà điêu khắc đến từ 5 châu lục cùng 13 nhà điêu khắc Việt Nam có mặt tại Huế để tham dự một trại điêu khắc đầu tiên được mở bên bờ sông Hương. Nếu như họ bị thu hút và rất nhiều ý tưởng đã được định hình bởi dòng sông, không gian và con người xứ Huế thì người dân Cố đô lại quan tâm đến công việc của họ với không ít lạ lẫm. Trên đá, trên đồng, nhôm, sắt, và cả tre, vải bạt...những bức tượng dần tượng hình. Không phải ai cũng hiểu được những ẩn ngữ của đá và cách mà các nhà điêu khắc chuyện trò cũng như để lại dấu ấn. Nhưng với những Dòng chảy của trời đất và sinh mệnh (Hori Yashuchi- Nhật Bản), Sự xói mòn (Her Benard - Thụy Sĩ), Bí ẩn và trầm cảm (Glen Clarke - Australia) hay Cuộc sống (Bakos Ildiko), OPUS V - 1998 (Vĩnh Phương - Hà Lan), Vẽ trên đá của Sue Pedley (Australia), Hướng thiện (Phan Đình Tiến) và Tuổi của sông Hương (Trần Luân Tín)... Huế đã có thêm điểm nhấn từ mối giao hoà giữa quá khứ và hiện đại. Giữa thâm trầm cổ kính với những cách nhìn và nhịp điệu cuộc sống trên những gam màu của đá, của đồng...

 Vườn tượng bên bờ sông Hương - Ảnh: Lê Vĩnh Thái

Thật ra, ý tưởng của những người đứng ra tổ chức Trại sáng tác điêu khắc quốc tế tại Huế cũng không có gì khác hơn là bắc một nhịp cầu văn hoá nối Cố đô với thế giới hiện đại rộng lớn bên ngoài. Điều ấy ban đầu cũng được nhìn nhận như một sự mạo hiểm và không kém phần táo bạo. Nhưng với sự mong muốn và quyết tâm để Huế có một vườn tượng cộng với sự hỗ trợ của quỹ Ford Foundation, táo bạo và mạo hiểm đã trở thành hiện thực...

Mùa hè năm 2002. Vẫn là ấn tượng Huế - Việt Nam nhưng Trại sáng tác điêu khắc quốc tế không còn là một hoạt động đơn lẻ nữa mà đã nằm trong chương trình của Festival Huế. 1 tháng trước khi khai mạc Trại, UBND tỉnh đã có quyết định dành 6 ha đất ở Ngự Bình để làm vườn tượng. Sự có mặt của 25 nhà điêu khắc quốc tế và 9 nhà điêu khắc Việt Nam (trong số 222 tác giả đăng ký) đã làm cho ấn tượng Huế - Việt Nam lần thứ hai có quy mô lớn nhất so với khoảng thời gian trước đó. Công viên 3-2. Lại là mái nhà tạm mang tính dã chiến của Ban điều hành. Những ánh mắt cởi mở. Những ánh nhìn thân thiện. Nắng và gió sông Hương hào phóng... Đó cũng là điều đã tạo nên nguồn cảm hứng thật sự cho các nhà điêu khắc sáng tạo. Mimoza, Thời gian và phương hướng, Đá cuội và nhôm, Chờ đợi, Huế thương, Tình yêu và hữu nghị... là sự tri lòng và thể hiện mình với Huế, với Việt Nam của các nhà điêu khắc Phinlippin, Malaixia, Australia, Việt Nam, Lào...

Không duyệt phác thảo. Chấp nhận mọi khuynh hướng sáng tác. Khuyến khích mọi sự tìm tòi sáng tạo trên chất liệu bền vững. Điều ấy được xem như cánh cửa mở để điêu khắc bước vào Huế. Ân tượng Huế - Việt Nam lần thứ 2 và lần thứ 3 này, Quỹ Rokefeller tham gia tài trợ cùng với sự tiếp tục của Quỹ Ford. Nhưng rất nhiều nhà điêu khắc quốc tế đã phải làm việc cật lực và tổ chức các cuộc triển lãm, trưng bày... để có tiền đến Huế. Điều gì đã thu hút họ đến vậy?

"Huế không có xe điện ngầm. Không có cầu vượt. Không có bê tông. Chỉ có dòng sông và tấm lòng..." Đó là điều mà nhà điêu khắc Nguyễn Hiền - Trưởng khoa Điêu khắc Trường đại học Nghệ thuật Huế, Phó ban điều hành và cũng là "mắt xích" nối kết quan trọng nhất ở cả ba trại điêu khắc quốc tế tại Huế - đã nói với đồng nghiệp của mình khi đặt mối liên hệ. Tôi đã nhìn thấy điều ấy trong mắt Gerard Howeler một chiều tháng 5 khi ông ngồi bên sông Hương cùng với chiếc áo màu xanh nhạt lấm bụi, chiếc mũ Tiger bạc phếch mà ông có được từ ấn tượng Huế - Việt Nam lần thứ hai. Đó là lần thứ hai Gerard Howeler trở lại Huế bằng sự tài trợ của chính mình. Tôi cũng nhìn thấy điều ấy trong mắt của Marianne Reim - người phụ nữ Australia nhỏ nhẹ làm tượng và tác phẩm của chị gần như cũng thầm thì "Hearing the song" - lắng nghe những bài hát. Trong cái nhìn điềm đạm của Paiyan Banjongklieng - chàng trai đến từ đất nước Chùa Tháp. Ngay cả Laury Dizengremel - người phụ nữ Pháp nói như không lúc nào ngưng nghỉ cũng có một khoảng lặng khi bảo rằng, chị đã thật không hiểu vì sao một doanh nghiệp người Việt Nam tại Anh đã tài trợ để chị có thể có mặt ở Huế lần thứ hai. Cùng với câu khẳng định "ông ấy là một người tốt", điều mà Laury muốn nói nữa là, tôi sẽ làm việc bằng hai tình yêu. Một của chính tôi và một được gửi gắm.

Da đen xạm. Di chuyển liên tục và có cảm giác người lúc nào cũng sôi sùng sục. Thoạt nhìn, Nguyễn Hiền dễ đem đến cho người đối diện cảm giác về một người đàn ông "ăn sóng nói gió". Nhưng tôi đã chứng kiến những giờ phút lo nghĩ của anh khi cầm một xấp văn bản trên tay trong căn phòng mà Trường đại học Nghệ thuật dành cho Ban điều hành. Lúc ấy, danh sách các nhà điêu khắc vẫn chưa thể chốt lại. Lúc ấy, đá vẫn chưa được tập kết về bởi nhiều quy định ràng buộc. Lúc ấy, ngày khai mạc trại cũng chưa được ấn định. Văn phòng dã chiến chưa có. Dụng cụ và phương tiện chưa được sửa sang... Người đàn ông này thực sự đã bị công việc cuốn đi hay công việc đã được cuốn đi bởi chính anh. Hôm ấy, trong bữa cơm chiều với các nhà điêu khắc và cuộc gặp gỡ vồi vội giữa một núi công việc cần phải điều hành, ông Lê Viết Xê - Giám đốc Festival Huế 2004 đã nhìn Nguyễn Hiền và bảo rằng, trại điêu khắc sẽ khó lòng mà thực hiện được nếu không có những người như anh. Người đàn ông ấy trưa hôm qua đã nói với tôi về ước mơ và nỗi niềm của một thời trai trẻ, về những năm tháng khó khăn nhưng tuyệt vời đã kéo anh đến với đá như cuộc gặp gỡ tình cờ rồi sắp đặt cho số phận. Trên trang giấy trắng rút vội, những ngón tay to và rám nắng của anh kể cho tôi nghe câu chuyện của dòng sông, chiếc nón, con đò và mảnh trăng... Mạnh về đá nhưng lần này, Nguyễn Hiền lại chọn i - nốc để thực hiện tác phẩm của mình. Câu chuyện của anh chưa có tựa đề nhưng tôi cảm nhận một điều gì đó đang dịu lại...

Nắng vàng. Mái bạt xanh. Những mái tóc vàng. Tóc đen. Những mái tóc nâu. Bụi đá. Tiếng đục đá, tiếng cưa...Những âm thanh ấy đã trở nên thân thuộc với người dân Huế. Rồi sẽ có một nơi nghỉ ngơi thư giãn ở chân núi Ngự Bình với tác phẩm của các nhà điêu khắp nơi trao lại cho Huế. Nhưng vườn tượng đẹp nhất vẫn là hai bờ sông Hương. Và nếu như Marianne Reim thì thầm "Lắng nghe những bài hát", sông Hương lại thao thiết khi lắng nghe câu chuyện của những tấm lòng...

H.N
(184/06-04)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BẠCH DIỆP

    "Có lẽ đau khổ lại tốt cho con người. Nhà nghệ sĩ có thể làm gì nếu anh ta hạnh phúc? Anh ta liệu có muốn làm bất cứ điều gì không? Nghệ thuật, rốt cuộc chính là chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời".

  • ĐINH CƯỜNG

    Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh

     

  • PHAN THANH BÌNH

    Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, từ Âu châu đến Á châu đã ghi nhận nhiều hoàng đế từng cầm bút vẽ, nặn tượng và không ít bảo tàng mỹ thuật ở các quốc gia có lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật mà tác giả là những vị vua danh tiếng.

  • KHẢ HÂN

    Là một trong những họa sĩ chủ soái của trường phái Ấn tượng nổi tiếng với phong cách làm việc ngoài trời một cách nhất quán, Monet đã để lại rất nhiều bức vẽ đầy ấn tượng về băng, tuyết và sương giá.

  • LINH PHƯƠNG

    Một lần nữa có thể thấy rằng, mỹ thuật Huế trong dòng chảy của mình, không ồn ào mà lại âm thầm trong việc theo đuổi những tiếng gọi nghệ thuật thuộc nhiều kiểu dạng ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau để có được hiệu quả thẩm mỹ tốt nhất.

  • PHƯỢNG LÂM

    Họa sĩ Léopold Franckowiak, đến nay ông đã có bảy năm sống ở Việt Nam. Có thể nói, Việt Nam là nơi gợi cảm hứng sáng tác mạnh mẽ nhất với ông trong thời điểm này.

  • TRẦN DUY MINH

    Trong hội họa, mùa thu là mùa quyến rũ với các họa sĩ, bởi mùa thu là mùa của thi tính, của cái đẹp và cũng là mùa của nỗi buồn. Mùa thu là mùa của sự úa tàn, của những phôi pha, của những gì kết thúc nhưng đó cũng là thời điểm để khởi đầu cho một hành trình mới của sự vật.

  • LÝ HỮU NGUYÊN

    Nguyễn Trọng Khôi là họa sĩ song hành cả hiện thực và trừu tượng.

  • VŨ LINH

    Từ khởi thủy của nghệ thuật tạo hình, động vật đã là một đề tài được lựa chọn. Những hình vẽ sơ khai nhất được tìm thấy trong các hang động, những hình thù khắc trên đá, trên xương động vật, trên các dụng cụ bằng đồng...

  • TRẦN DIỄM THY

    Trong nghệ thuật tạo hình trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hình tượng trẻ con luôn được xem như là một nguồn mạch của sáng tạo nghệ thuật.

  • LÊ TRIỀU HẢI

    Nếu như nghệ thuật hiện đại có những cách thức đi ngược chiều với quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng của Plato và Aristotle, thì ngày nay, trào lưu nghệ thuật cực thực lại hướng tới mô phỏng ngoại giới một cách tinh vi, nếu không muốn nói là đẩy tới cực đoan nhất có thể trong việc mô phỏng vật thể.

  • NGUYỄN THỊ HÒA

    Huế những năm đầu thế kỷ XX, Nhà nước phong kiến triều Nguyễn đã ban hành nhiều chính sách, trong đó có chính sách văn hóa hướng tới nhiều khía cạnh của đời sống xã hội như văn chương nghệ thuật, giáo dục, giao lưu, tiếp xúc văn hóa, bảo tồn di sản… nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa nghệ thuật của cộng đồng, với sự xuất hiện trào lưu học thuật tân tiến của châu Âu, mỹ thuật được giao lưu biểu hiện qua các hoạt động và sáng tác nghệ thuật.

  • ĐẶNG TRIỆU VĂN

    Như tên gọi của nó, trào lưu tối giản trong nghệ thuật hướng tới tiết chế mọi yếu tố cấu nên tác phẩm nghệ thuật.

  • NGUYỄN HOÀNG VY

    Từ khi Phân tâm học của Freud ra đời, người ta mới có thể lý giải được phần nào nguyên do xui khiến người nghệ sĩ lao vào sáng tạo nghệ thuật, có một sức mạnh to lớn từ vô thức khiến người nghệ sĩ mộng mơ, đó là sức mạnh bất khả từ chối.

  • VŨ LINH

    Với hội họa Việt Nam, sơn mài là chất liệu không xa lạ. Những tên tuổi lớn từng thành công trên chất liệu sơn mài phải kể đến như: Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An, Nguyễn Tư Nghiêm...

  • TRÚC LÂM

    Trong văn hóa nhân loại, lợn như là một biểu tượng phổ quát. Lợn được xem là tổ phụ sáng lập một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Meslanesie. Nữ thần trời và mẹ vĩnh cửu của các tinh tú ở Ai Cập cổ đại lại thường được tạo hình trên các bùa đeo với những họa tiết của lợn nái đang cho đàn con bú.

  • VŨ PHƯƠNG

    Trong dòng nghệ thuật biểu ý, dựa trên ngôn ngữ biểu hiện ở Huế, thì Trương Thế Linh nổi lên như một hiện tượng tiêu biểu.

  • KHẢ HÂN

    Francesco Clemente sinh năm 1952, ở Naples, Italy. Ông xuất hiện vào thời điểm khi mà Thế chiến II vẫn còn là một ký ức dai dẳng khắc sâu thành những vết nứt trong tâm thức sáng tạo của cộng đồng nghệ sĩ ở dải đất ven vùng biển Địa Trung Hải này.

  • TRẦN PHƯƠNG ĐÔNG

    Lê Kinh Tài là một trong những nghệ sĩ đương đại rất thành công ở Việt Nam hiện nay. Sự thành công được minh chứng không chỉ ở số lượng tác phẩm lớn, những tìm tòi nghệ thuật không mệt mỏi mà cả ở giá tranh của ông trên thị trường quốc tế.