Tết ở các làng biển

10:50 29/01/2010
TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.

Cổng làng Cảnh Dương - Ảnh: caucaquangbinh.com

Vào vùng đất mới sinh cơ lập nghiệp, họ mang theo cả vốn văn hóa Đại Việt. Để rồi từ đó, những người dân quen “ chèo sóng chém gió” tạo cho mình một sắc thái văn hóa riêng. Tục lệ và sinh hoạt lễ Tết là một phần của sắc thái văn hóa đó.

Các làng biển ở Bình Trị Thiên có thể phân thành hai dạng chính:

- Dạng làng thuần ngư (như các làng Thuận An, Cảnh Dương, Bảo Ninh...)

- Dạng làng ngư nông (như các làng Nghĩa Nương, Thanh Trạch, Vinh Hiền...)

Làng thuần ngư chuyên nghề đánh bắt cá tôm, chế biến và buôn bán hải sản.

Làng ngư nông vừa làm ruộng, trồng vườn, vừa hành nghề trên biển theo thời vụ, hoặc những lúc nông nhàn.

Dù thuộc dạng làng nào, sinh hoạt văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần ở các làng chài lưới ven biển, ven đầm phá vẫn mang nhiều nét chung của thôn quê Việt cổ truyền. Tết Nguyên Đán nơi đây cũng không vượt ngoài qũy đạo đó.

Cuối tháng chạp âm lịch, các làng biển đã rục rịch không khí đón Xuân. Việc trước hết là các họ tộc, các gia đình đi sửa sang, vun đắp lại mồ mả của những người đã khuất. Nghĩa địa của không ít làng biển được đặt trên các động cát. Gió mưa miền Trung hay làm biến dạng, khỏa lấp mồ mả. Do vậy, việc đi sửa sang lại phần mộ người thiên cổ được xem là việc trọng đại của gia đình, của họ tộc. Quanh năm vất vả ngoài biển khơi, vào tháng chạp, nhà nào cũng phải bố trí một vài ngày cố lo cho xong. Không làm thế thì ăn Tết không yên. Một số làng quê có tục “ chạp mả làng”(Xưa các làng thường lập “ nghĩa trũng” làm nơi chôn cất những người chết (hoặc là vì chiến trận, hoặc vì đói nghèo, bệnh tật, vì chết trôi, chết nổi nơi sông biển, đầm phá bởi bão to gió lớn) mà không có người thân thích tế cúng. Ngày cuối năm, người làng hẹn chung một ngày cùng đi quét dọn, đắp điếm lại mồ mả cho những kẻ đơn côi.

            Không lo một nỗi mồ tàn
            Hai lăm tháng chạp có làng chạp cho
                                   
(Ca dao xứ Huế)

Cùng với việc “ chạp mả họ, chạp mả làng” là việc sắp xếp. dọn dẹp trang trí lại đình chùa, nhà cửa để đón Xuân. Với các làng biển, miếu thờ có ông voi (dân gian gọi là “ miếu Ông”, “ miếu Bà”), và miếu thờ các thần linh tọa lạc nơi lạch sông, cửa biển là những nơi rất thiêng liêng, bởi nó là tín ngưỡng có liên quan đến nghề nghiệp, dến công việc làm ăn trên sóng nước của họ. Do vậy, ngày Tết đến, Xuân sang các đền miếu này bao giờ cũng nghi ngút khói hương, cũng có người đến vái lạy rất thành kính.

Tết thì phải mới ngõ, mới nhà. Nhà làng biển dựng trên cát. Suốt một năm dài, mưa nắng, rác rưởi làm bẩn, làm đen đường đi lối lại, sân trước, vườn sau. Đón Xuân nhiều nhà đi gánh cát trắng, cát vàng từ động, từ cồn về rải đều sân, ngõ. Nhà cửa sạch hơn, sáng hơn trong nắng vàng, cát trắng.

Các món ăn ngày Tết ở làng biển không thể thiếu món cá. Duyên hải miền Trung cơ cấu bữa ăn hàng ngày cũng như khi giỗ, tết, vẫn thứ tự trước sau là các thứ: cơm gạo tẻ, các loại rau, quả, củ, các loại thủy hải sản, các loại thịt. Song khác với làng quê đồng bằng Bắc Bộ ăn nhiều cá ao, cá ruộng, người miền Trung ăn nhiều cá biển, cá đầm hơn. Vụ cá đông với nghề “ lưới rê” “ câu chằng” cổ truyền thu được nhiều loại cá ngon. “ Chim thu, nhụ, đé”, tôm hùm, mực thước... thứ nào cũng có. Mâm cỗ dân biển Bình Trị Thiên không có đĩa cá đĩa tôm thì thiếu hẳn một nét của văn hóa ẩm thực vùng quê này.

            Tết về câu đối, bánh chưng...
            Chẳng ham giò chả, chỉ “ ưng” ngứa, chòe (1)
                                               
(Ca dao Quảng Bình)

Cá cúng Tết phải chọn cá tươi, cá ngon, không cá thu, cá chim (cá giang), cá ngứa (cá nhụ) cá bẹ (cá đé)... thì cũng phải cá hồng, cá quẫn... Một mâm cỗ có thể có đến vài ba thứ cá, được nấu nướng, chế biến theo nhiều phương thức khác nhau: kho, rán (chiên), nướng, luộc, canh dấm, hoặc quết thành chả, cuốn gỏi...

Bánh các loại cũng đủ hình, đủ dạng chẳng khác gì bánh trái ở các làng cấy lúa, trồng khoai... Có điều bánh chưng, bánh ú thì nhiều nhà gói bằng lá dừa. Cây dừa dễ mọc, dễ sống trên đất cát. Xa rừng, hiếm lá dong, lá chuối, người vùng biển gói bánh chưng bánh ú bằng lá dừa đặt trong khuôn gỗ. Bánh chưng lá dừa vuông thành, sắc cạnh, gọn gàng, xinh xắn, đặt trên bàn thờ thật đẹp, thật duyên.

Sinh hoạt ngày tết ở các làng biển dường như sôi động, phong phú, đa dạng hơn các làng thuần nông ở sâu trong đồng, trong bãi. Một số thôn làng có những tập tục, những loại hình văn hóa, văn nghệ khá độc đáo và đặc sắc. Làng Cảnh Dương, Quảng Bình có tục lấy lửa từ sân đình làng đêm giao thừa, có hội thi “ nấu cơm cần”, hội đánh cờ người, cờ thẻ, làng Thuận An mở hội cầu ngư, bủa lưới bắt cá và bơi trải trên phá Tam Giang từ ngày 10 đến ngày 12 tháng giêng âm lịch, làng Mỹ Lợi (Phú Lộc, Thừa Thiên Huế) tổ chức họp chợ Tết, chuyên mua bán thịt heo, để mang điều lành đến cho mọi nhà... Các làng kác thì chơi đánh cù trên cát, hò bài thai, bài chòi, hát chèo can, kéo dây, đập nồi rang, leo cột chuối... trò nào cũng vui, cũng có sức thu hút hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người đến tham gia và cổ vũ.

Dân làng biển thường làm lễ xuất hành sớm. Chẳng cần sau ngày động mõ, đầu Xuân, bất kể mùng một, hay mùng ba, miễn chọn được ngày tốt, là nhiều chủ thuyền đã cùng bạn lái đẩy “ nôốc” ra biển, buông vài đường câu, đánh mấy vác lưới để lấy may, lấy phúc... Dịp xuất hành này nhà nào bắt được cá lớn, cá ngon thì rất đỗi mừng vui. Họ tin rằng năm mới việc chài lưới của gia đình họ sẽ “ thuận buồm xuôi gió” vào lộng ra khơi đều “ êm chèo mát nước”, “ tôm đầy thuyền, cá khẳm khoang”... Lễ cửa lễ xuất hành đầu Xuân đơn giản, mà trang nghiêm, thành kính, từ việc tế cúng ở miếu, đền đến các tục kiêng kị trên bến, dưới thuyền (như không bước qua lưới, không ăn to nói lớn khi thuyền chạy qua các hòn “ đảo thiêng”, tục gọi là Hòn Ông...)

Tết ở các làng biển từ đèo Hải Vân đến đèo Ngang, nhìn tổng quát vẫn là tết của làng quê, cư dân nông nghiệp “ Dấu ấn biển” thể hiện trên nhiều phương diện, tạo nên nét riêng của lễ Tết miền duyên hải, góp phần làm phong phú thêm, đa dạng thêm văn hóa Tết ở dải đất miền Trung.

T.H
(120/02-99)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ QUANG THÁI

    Lễ cầu mưa hoặc cầu tạnh đều được gọi chung là lễ đảo vũ. Trong lịch sử có những năm hết cảnh nắng hạn đến mưa sa kéo dài.

  • TÔN THẤT BÌNH

    Trong các loại dân ca nghi lễ ở Huế (hò đưa linh, hát bả trạo, hát sắc bùa v.v...) hát hầu văn chiếm một vị trí riêng trong đời sống tâm linh của những người theo Thiên Tiên Thánh Giáo.

  • TRẦN LÂM BIỀN

    Một thực tế không thể phủ nhận là: Trong quá khứ và cả hiện tại việc thờ Mẫu trên đất Việt đã có một địa bàn khá rộng lớn.

  • LÊ AN PHƯƠNG

    Ngay từ thời sơ khai, con người ý thức về sự tồn tại vật chất - bản - thân - mình: có hai con người - linh hồn và thể xác. Con người thể xác có thể chết, nhưng con người linh hồn sẽ sống mãi!

     

  • PHAN NỮ  

    Lý Sơn là huyện đảo duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi nằm cách đất liền 15 hải lý, về phía Đông Bắc, gồm 1 đảo lớn (Cù Lao Ré), 1 đảo bé (Cù Lao Bờ Bãi), và hòn Mù Cu, vốn là bãi đá nhô cao nằm ở phía Đông đảo lớn. Huyện Lý Sơn hiện có 3 xã là An Hải, An Vĩnh và An Bình với tổng diện tích tự nhiên là 9,97 km2, dân số 18.924 người (năm 2015).

  • NGUYỄN VĂN UÔNG   

    Đổ xăm hường là thú chơi tao nhã xuất phát từ nội cung triều Nguyễn. Trò chơi này lan truyền dần ra các gia đình quan lại, quí tộc và người khá giả chốn kinh kỳ.

  • HOÀNG HUYỀN THANH - LÊ CHÍ QUỐC MINH

    Lễ hội truyền thống là hình thức sinh hoạt cộng đồng xuất hiện và gắn liền với quá trình phát triển của cộng đồng người, là một loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống tổng hợp, vừa độc đáo vừa phong phú.

  • Làng Đông Hồ (xã Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) vốn nổi danh với nghề làm tranh dân gian, nhưng nay do nhu cầu đời sống mà hầu hết người dân chuyển sang làm vàng mã.

  • Rẽ thân rơm rạ, vờn trên mặt cỏ rồi lấy đà phóng mình vút lên… Những con diều từng phút, từng giây thay đổi, đan cải, biến ảo với muôn hình hài và sắc màu, rồi chậm rãi rót xuống mặt đất thanh âm trầm bổng. Ấy là thức quà của đồng nội, cũng là hào quang ước mơ của đời nông dân chân lấm, tay bùn.

  • Trong những ngày tháng ba này, hàng triệu con dân nước Việt không kể gần xa lại cùng nhau hướng về đất Phong Châu - Phú Thọ, thành kính, tưởng nhớ, tri ân tiên tổ.

  • Dù chưa tới ngày chính lễ (6-4) nhưng lượng du khách đổ về Lễ hội Đền Hùng 2017 tăng đột biến. Trước tình trạng này, BTC Lễ hội Đền Hùng đã đưa ra các khuyến cáo dành cho du khách về tham dự lễ hội năm 2017.

  • Ngày 3/4 (tức mùng 7/3 âm lịch), tại sân khấu hồ Công viên Văn Lang, thành phố Việt Trì, Ban tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng 2017 đã tổ chức Hội Sách đất Tổ năm 2017.

  • Nằm trong khuôn khổ Giỗ Tổ Hùng Vương-Lễ hội Đền Hùng 2017, tối 1/4 (tức 5/3 âm lịch), Lễ hội dân gian đường phố Việt Trì năm 2017 do Ủy ban Nhân dân thành phố Việt Trì (tỉnh Phú Thọ) tổ chức đã diễn ra tưng bừng tại quảng trường công viên Văn Lang và các tuyến đường của thành phố.

  • Năm nay, Lễ hội diễn ra trong 6 ngày (từ 1-6/4/2017 tức từ ngày 5-10/3 năm Đinh Dậu) với phần Lễ có nghi thức trang trọng, gồm Lễ giỗ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân (bắt đầu từ 6h30 ngày 6/3 âm lịch) và Lễ dâng hương tưởng niệm Tổ Mẫu Âu Cơ sẽ diễn ra buổi sáng cùng ngày.

  • Năm Đinh Dậu - 2017, giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng diễn ra trong 06 ngày, từ ngày 01 - 06/4/2017 (tức từ ngày 05 - 10/3 âm lịch) do UBND tỉnh Phú Thọ chủ trì và có sự tham gia góp giỗ của 4 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Thái Bình, Bình Phước và Bến Tre. Các hoạt động đều có quy mô lớn hơn, nội dung phong phú, đa dạng và có nhiều nét mới.

  • Ngày 21/3, tại xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên đã diễn ra Lễ hội Thành Bản Phủ năm 2017 gắn với Ngày hội Văn hóa - Thể thao - Du lịch các dân tộc huyện Điện Biên lần thứ VI.

  • Lễ hội được tổ chức từ xa xưa tới nay, không chỉ là pho sử ngàn đời được mở ra mỗi năm một lần để trao truyền cho các thế hệ, cố kết cộng đồng... mà còn là dịp bán sản phẩm nhà nông, trao đổi sản vật địa phương... Nhiều tiềm năng, giá trị của lễ hội đã được chú ý khai thác, đặc biệt là gắn lễ hội với phát triển du lịch, nhưng hiệu quả chưa cao.