Say mê nghệ thuật, đi nhiều, vẽ nhiều, họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ có nhiều tác phẩm hội họa giá trị, nhiều đóng góp cho sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam...
Tác phẩm "Nhà tranh gốc mít" của họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ, được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Họa sĩ bậc thầy
“Nói tới họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ, người ta thường nhớ đến sự nghiệp sáng tác mỹ thuật trên nhiều chất liệu như sơn mài, lụa, sơn dầu, khắc gỗ. Các tác phẩm hội họa, đồ họa của Nguyễn Văn Tỵ thể hiện bút pháp khỏe khoắn, hình họa chuẩn xác, lối vẽ phóng khoáng với những tìm tòi thể nghiệm, tạo nên bản sắc riêng” -PGS.TS Lê Văn Sửu, Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam phát biểu trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông.
Sinh ngày 24/2/1917 tại Hà Nội, Nguyễn Văn Tỵ gắn bó và yêu thích hội họa từ rất sớm. 17 tuổi, ông học dự bị tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, sau đó thi đỗ chính thức vào trường và học khóa 11 (1936-1941) cùng các họa sỹ Hoàng Tích Chù, Nguyễn Tiến Chung, Bùi Trang Chước, Trần Văn Lắm… Ngay từ những ngày còn đi học (1936-1941), họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ đã có nhiều tác phẩm tham gia triển lãm ở trong và ngoài nước. Một số tác phẩm của ông được giới mỹ thuật đương thời chú ý: “Thuyền gạo sông Hồng”, “Chị em”, “Chim công”, “Chùa mở hội”, “Hai cô gái Mường” .
Đặc biệt, trong thời gian là sinh viên, Nguyễn Văn Tỵ cùng họa sỹ Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Phạm Hậu, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Khang, Lê Quốc Lộc tìm tòi, bổ sung, làm phong phú thêm cho chất liệu sơn mài các kỹ thuật và chất liệu như cách rây vàng bạc, sử dụng vỏ trứng, vỏ trai, đắp nổi… Ông là người có đóng góp trong việc đưa màu xanh lam và sắc trắng của vỏ trứng vào tranh sơn mài, nhằm phá vỡ thế độc tôn của gam đỏ đen, đưa tranh sơn mài Việt Nam lên một bước phát triển mới, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Tốt nghiệp loại ưu và ra trường năm 1941, từ đó về sau, họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ đã đi nhiều nơi, đến nhiều vùng miền, không ngừng tìm tòi, sáng tạo nghệ thuật và có những đóng góp lớn lao cho nền mỹ thuật Việt Nam.
Nhà giáo, nhà phê bình mỹ thuật
PGS.TS Lê Văn Sửu chia sẻ, trong kí ức của học trò trường mỹ thuật, thầy Nguyễn Văn Tỵ có phương pháp dạy đề cao lối vẽ chính xác nhưng không gò bó. Thầy không hề áp đặt, mà để sinh viên tự nhận thức, sáng tạo thông qua các bài học thực tế. Thầy cũng là người viết cuốn sách “Bước đầu học vẽ” được NXB Văn hóa in năm 1963, và được tái bản 3 lần vào các năm 1968, 1975, 1984. Cuốn sách được nhiều thế hệ sinh viên mỹ thuật ưa thích, như một cuốn cẩm nang cho việc học tập, nghiên cứu hình họa.
Nguyễn Văn Tỵ còn là nhà lý luận, phê bình mỹ thuật với nhiều bài viết được đăng trên các báo, tạp chí. Các bài viết của ông được xem như những viên gạch đầu tiên, xây dựng nền móng cho ngành lý luận, phê bình mỹ thuật của Việt Nam.
Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Hải Yến, Chi hội trưởng Chi hội phê bình mỹ thuật Hà Nội chia sẻ, các bài phê bình mỹ thuật của Nguyễn Văn Tỵ tìm về chiều sâu thẳm của tư duy làng xã, nếp xưa. Ở vai trò một nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật, Nguyễn Văn Tỵ đặt nhiệm vụ, người cầm bút cần tỉnh táo nhận xét đánh giá tác phẩm, tư cách nghệ sỹ trong từng hoàn cảnh lịch sử, chiêm nghiệm từng thử thách, ứng xử văn hóa... “Tài sản họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ để lại là các tác phẩm kinh điển, là các trang viết già dặn, trí tuệ, dẫn dắt người xem về cội nguồn văn hóa Việt…”, nhà phê bình Nguyễn Hải Yến nói.
Họa sỹ yêu nước
Nguyễn Văn Tỵ là một trong những văn nghệ sĩ tham gia cách mạng từ rất sớm. Năm 1945, ông làm ủy viên Ban chấp hành Hội văn hóa Cứu quốc, viết báo Tiền Phong, vẽ tranh cổ động “Độc lập hay là chết” trưng bày tại Hà Nội. Năm 1947, ông vào miền Trung làm Ủy viên Chấp hành văn hóa kháng chiến Thanh Hóa và Liên khu 4. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông đi thực tế và sáng tác ở những làng kháng chiến Cự Nẫm, Lệ Sơn, Cảnh Dương (Quảng Bình); biên tập và xuất bản tập san Mỹ thuật, tạp chí “Sáng tạo” – cơ quan ngôn luận của Văn hóa kháng chiến Liên khu 4(1948-1950).
![]() Tác phẩm "Bắc Nam xum họp" của họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ. Được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. |
Năm 1951, Nguyễn Văn Tỵ cùng Nguyễn Sỹ Ngọc ra Việt Bắc làm giảng viên cho trường Mỹ thuật kháng chiến ở Đoan Hùng, Phú Thọ, đi vẽ ở Việt Bắc, ở chiến dịch Điện Biên Phủ… Thời gian này, dù điều kiện kháng chiến gian khổ, thiếu thốn, nhưng ông vẫn liên tục sáng tác và cho ra đời nhiều tác phẩm mới. Có thể kể đến những tác phẩm như “Chiến lũy Ngã Tư Sở”, “Xe cứu thương”, “Bộ đội giã gạo”, “Vùng biển Cảnh Dương”, “Lão chài”… Năm 1954, họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ trở về Hà Nội, tham gia Ban tổ chức chào mừng Thủ đô giải phóng, do Hội văn nghệ Việt Nam tổ chức. Sau đó ông về giảng dạy tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam.
Trong những năm hòa bình lập lại ở miền Bắc, vừa giảng dạy, họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ vừa sáng tác, tham gia trưng bày ở nhiều triển lãm lớn. Đề tài chủ yếu trong các sáng tác của ông thời kỳ này là về cuộc chiến đấu giành độc lập của quân và dân cả nước. Có thể kể đến những tác phẩm như: “Nhân dân Tây Bắc hoan hô chiến thắng Điện Biên Phủ” - lụa, và các ký họa “Đèo lũng lô - Tây Bắc”, “Bộ đội và dân công”, “Bộ đội qua làng”, “Một quãng đường chiến dịch”, “Bộ đội vượt lũ làm đường”, “Du kích Bắc Sơn”…
Khi Mỹ đưa chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc, họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ đã nhiều lần đi vẽ tại tuyến lửa Vĩnh Linh, đi chiến trường Lào, đi Trường Sơn, chiến dịch Buôn Ma Thuột và chiến dịch Hồ Chí Minh... Theo lời kể của họa sỹ Nguyễn Văn Chiến, trong chuyến đi vẽ ở Quảng Bình – Vĩnh Linh năm 1969, họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ từng chia sẻ, ông thể hiện nội dung của tác phẩm qua hình dáng, vẻ mặt, màu sắc, bút pháp, kể cả không khí của cảnh vật nơi ông vẽ. Tình cảm của nhân vật tuy không thốt lên được bằng lời, nhưng một màu đất đỏ quê hương, một cành cây trơ trụi, một ánh vàng trên cột điện gãy nghiêng hay một vệt sáng trong hầm sâu… cũng gợi lên được lòng yêu nước, hay ý chí căm thù của một anh du kích, của một bà mẹ mất con vì bom đạn Mỹ.
Nguồn: Tuệ Lâm – baotintuc
BẠCH DIỆP
"Có lẽ đau khổ lại tốt cho con người. Nhà nghệ sĩ có thể làm gì nếu anh ta hạnh phúc? Anh ta liệu có muốn làm bất cứ điều gì không? Nghệ thuật, rốt cuộc chính là chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời".
ĐINH CƯỜNG
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh
PHAN THANH BÌNH
Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, từ Âu châu đến Á châu đã ghi nhận nhiều hoàng đế từng cầm bút vẽ, nặn tượng và không ít bảo tàng mỹ thuật ở các quốc gia có lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật mà tác giả là những vị vua danh tiếng.
KHẢ HÂN
Là một trong những họa sĩ chủ soái của trường phái Ấn tượng nổi tiếng với phong cách làm việc ngoài trời một cách nhất quán, Monet đã để lại rất nhiều bức vẽ đầy ấn tượng về băng, tuyết và sương giá.
LINH PHƯƠNG
Một lần nữa có thể thấy rằng, mỹ thuật Huế trong dòng chảy của mình, không ồn ào mà lại âm thầm trong việc theo đuổi những tiếng gọi nghệ thuật thuộc nhiều kiểu dạng ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau để có được hiệu quả thẩm mỹ tốt nhất.
PHƯỢNG LÂM
Họa sĩ Léopold Franckowiak, đến nay ông đã có bảy năm sống ở Việt Nam. Có thể nói, Việt Nam là nơi gợi cảm hứng sáng tác mạnh mẽ nhất với ông trong thời điểm này.
TRẦN DUY MINH
Trong hội họa, mùa thu là mùa quyến rũ với các họa sĩ, bởi mùa thu là mùa của thi tính, của cái đẹp và cũng là mùa của nỗi buồn. Mùa thu là mùa của sự úa tàn, của những phôi pha, của những gì kết thúc nhưng đó cũng là thời điểm để khởi đầu cho một hành trình mới của sự vật.
LÝ HỮU NGUYÊN
Nguyễn Trọng Khôi là họa sĩ song hành cả hiện thực và trừu tượng.
VŨ LINH
Từ khởi thủy của nghệ thuật tạo hình, động vật đã là một đề tài được lựa chọn. Những hình vẽ sơ khai nhất được tìm thấy trong các hang động, những hình thù khắc trên đá, trên xương động vật, trên các dụng cụ bằng đồng...
TRẦN DIỄM THY
Trong nghệ thuật tạo hình trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hình tượng trẻ con luôn được xem như là một nguồn mạch của sáng tạo nghệ thuật.
LÊ TRIỀU HẢI
Nếu như nghệ thuật hiện đại có những cách thức đi ngược chiều với quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng của Plato và Aristotle, thì ngày nay, trào lưu nghệ thuật cực thực lại hướng tới mô phỏng ngoại giới một cách tinh vi, nếu không muốn nói là đẩy tới cực đoan nhất có thể trong việc mô phỏng vật thể.
NGUYỄN THỊ HÒA
Huế những năm đầu thế kỷ XX, Nhà nước phong kiến triều Nguyễn đã ban hành nhiều chính sách, trong đó có chính sách văn hóa hướng tới nhiều khía cạnh của đời sống xã hội như văn chương nghệ thuật, giáo dục, giao lưu, tiếp xúc văn hóa, bảo tồn di sản… nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa nghệ thuật của cộng đồng, với sự xuất hiện trào lưu học thuật tân tiến của châu Âu, mỹ thuật được giao lưu biểu hiện qua các hoạt động và sáng tác nghệ thuật.
ĐẶNG TRIỆU VĂN
Như tên gọi của nó, trào lưu tối giản trong nghệ thuật hướng tới tiết chế mọi yếu tố cấu nên tác phẩm nghệ thuật.
NGUYỄN HOÀNG VY
Từ khi Phân tâm học của Freud ra đời, người ta mới có thể lý giải được phần nào nguyên do xui khiến người nghệ sĩ lao vào sáng tạo nghệ thuật, có một sức mạnh to lớn từ vô thức khiến người nghệ sĩ mộng mơ, đó là sức mạnh bất khả từ chối.
VŨ LINH
Với hội họa Việt Nam, sơn mài là chất liệu không xa lạ. Những tên tuổi lớn từng thành công trên chất liệu sơn mài phải kể đến như: Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An, Nguyễn Tư Nghiêm...
TRÚC LÂM
Trong văn hóa nhân loại, lợn như là một biểu tượng phổ quát. Lợn được xem là tổ phụ sáng lập một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Meslanesie. Nữ thần trời và mẹ vĩnh cửu của các tinh tú ở Ai Cập cổ đại lại thường được tạo hình trên các bùa đeo với những họa tiết của lợn nái đang cho đàn con bú.
VŨ PHƯƠNG
Trong dòng nghệ thuật biểu ý, dựa trên ngôn ngữ biểu hiện ở Huế, thì Trương Thế Linh nổi lên như một hiện tượng tiêu biểu.
KHẢ HÂN
Francesco Clemente sinh năm 1952, ở Naples, Italy. Ông xuất hiện vào thời điểm khi mà Thế chiến II vẫn còn là một ký ức dai dẳng khắc sâu thành những vết nứt trong tâm thức sáng tạo của cộng đồng nghệ sĩ ở dải đất ven vùng biển Địa Trung Hải này.
TRẦN PHƯƠNG ĐÔNG
Lê Kinh Tài là một trong những nghệ sĩ đương đại rất thành công ở Việt Nam hiện nay. Sự thành công được minh chứng không chỉ ở số lượng tác phẩm lớn, những tìm tòi nghệ thuật không mệt mỏi mà cả ở giá tranh của ông trên thị trường quốc tế.