Hương trong vườn xưa

14:15 07/08/2014

NGUYỄN NHÃ TIÊN
                   tùy bút

Tưởng người nên lại thấy người về đây
                                  (Nguyễn Du)

Làng văn hóa Tiên Điền - Ảnh: internet

Đã bao lần có dịp hành hương về Tiên Điền - quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du, nhưng rơi vào giữa một ngày mưa lất phất thì quả đây là lần đầu tiên tôi nếm trải. Hình như gió lạnh và mưa bụi mỏng mảnh đầy trời, cọng hưởng với vô vàn tiếng lá lao xao trong vườn Tiên Điền, dễ khiến con người ta quên đi thực tại mà vọng tưởng đến âm vang người xưa đâu đây. Bước vào nhà bảo tàng Nguyễn Du, xem từng di vật, từ nghiên mực Nguyễn Du thường dùng đến bộ tách uống rượu…, mỗi thứ một linh hồn, tất cả lặng im hay là thăm thẳm tiếng nói tịch ngôn bao phủ một niềm bí mật, gợi mở ra thế giới vô tận của người xưa.

Sinh ra tại phường Bích Câu - Thăng Long, cho đến cuối đời mất tại Huế, kì thực Nguyễn Du về ở tại quê hương Tiên Điền của mình không nhiều so với cuộc đời dằng dặc có hơn nửa thế kỉ, từng bao nỗi thác ghềnh dằn xé số phận của một thiên tài. Người ta ước đoán rằng, trong quãng thời gian không nhiều, độ năm, sáu năm về sinh sống tại quê nhà, đấy là những tháng năm thanh bần nhất trong cuộc đời Nguyễn Du. Biển Nam mênh mông làm người đi câu (Nam hải điếu đồ), hay Hồng Sơn chín mươi chín ngọn làm gã thợ săn (Hồng Sơn liệp hộ), chính thời gian này, đa phần các tác phẩm văn Nôm “văn chiêu hồn”, và “truyện Kiều” đã được viết ra tại đây.

Bây giờ người xưa vẫn đang ở đây! Cái “Lời quê chắp nhặt dông dài” ngót ba nghìn năm trăm hai mươi tư câu, cái bản Kiều chữ Nôm in vào năm 1902 giấy đã ố vàng, nằm im lặng trong chiếc tủ kính của nhà bảo tàng. Một sự im lặng tỏa sáng, một sự im lặng chừng như là tột cùng đỉnh cao của mọi âm thanh, mà sức vang hưởng làm động vọng cả thời gian và trái tim của cả nhân loại. Tôi nhớ Đàm Văn Chí, trong Lch s văn hóa Vit Nam đã viết rằng: “Truyện Kiều cực kì diễm lệ hào hoa phù hợp với tuổi trên ba mươi của Nguyễn Du (tức là thời gian ông về lại Tiên Điền - 1796) thông thường là ở mức độ phong nẫm về tình ý, lại có vẻ thực vì chính đó là vang dội của những mối tình đẹp của riêng mình, có tính dở dang bi kịch và bạc mệnh”. Đến nhà viết sử cũng lãng mạn theo người xưa mà đoán định Truyện Kiều rằng: “Chính đó là vang dội của những mối tình đẹp”. Thế nên đi trên đất Tiên Điền vang bóng cảnh cũ người xưa, chập chùng bao giai thoại về tình yêu của Nguyễn Du như muốn thi thố với rêu xanh mà tươi tốt.

Theo câu hát ví của Nguyễn Du viết “Thác lời trai phường nón Tiên Điền gởi gái phường vải Trường Lưu”, tôi thử một cuộc “điền dã” bằng tâm tưởng. Nghĩa là từ khu vườn Tiên Điền này đây, ngày xưa anh em Nguyễn - Tiên Điền từng men theo con đường dưới chân ngọn Hồng Lĩnh, đạp sim mua vượt dải Ngàn Hống qua phường vải Trường Lưu hát ví. Sẽ khó mà đoán định ra nơi nào là bến sông Cài, nơi cô lái đò từng liều lĩnh vượt mưa to gió lớn chèo thuyền đưa Nguyễn Du qua sông cho kịp đêm hát: Sóng to thuyn nh khó sang. Thiếp nguyn thiên địa giúp chàng mt phen. Mối tình nảy nở từ đó, để Nguyễn Du viết trong bài hát ví của mình: Tiếc thay duyên Tn phn Tn. Chưa quen đã l chưa gn đã xa… Hng Sơn cao ngt my trùng. Sông Cài my trượng thì lòng by nhiêu. Và rồi còn bao hồng nhan khác nức tiếng phường vải Trường Lưu, những nàng Uy, nàng Sạ, những sắc nước hương trời khác… đến nỗi huyền thoại cả một vùng đất làm say lòng giống nòi tình: Mun tm mát thì lên giếng Đoài. Mun ly v đẹp hi người Trường Lưu.

Nhưng tại sao cứ là những giai thoại, không chỉ đầy hư ảo ở Tiên Điền, mà ngay trên đất Bắc - Thăng Long, nơi Nguyễn Du sinh ra và lớn lên, một thời hoa niên đẹp đẽ những giấc mộng đại toàn, lại cũng vẫn những giai thoại. Ai ơi chèo chng tôi sang. Ko tri trưa trt l làng tôi ra. Câu chuyện tình với cô lái đò sông Nhị đã đưa đón Nguyễn ngày ngày đến lớp học bên kia sông, là do dân gian sáng tạo ra hay là hiện thực. Dấu vết những tình yêu không lưu lại trong thơ Nguyễn Du chút bóng dáng nào ư? Có đấy, nhưng lại cũng mơ hồ, để từ đó trí tưởng của đại chúng lại thêu dệt thêm hoa gấm, cho sương khói cùng với thời gian ngày mỗi hư ảo lung linh hơn. Bài thơ “Mộng đắc thái liên” (Mộng thấy hái sen) của Nguyễn Du là một trường hợp như thế… Kim thn kh thái liên. Nãi ước đông lân n. Bt tri lai bt tri. Cách hoa văn tiếu ng… (Sáng nay đi hái sen. Hn cùng cô láng ging. Đến lúc nào không biết. Nói cười sau khóm sen…). Người đẹp hái sen ở hồ Tây để Nguyễn hẹn hò mơ mộng ngày ngày vác cần câu ra ngồi câu là ai thế? Thật khó có thể trả lời một cách cụ thể, cho dù thơ ấy rõ ràng đã nói lên tình yêu của Nguyễn Du: Hoa dĩ tng s úy. Thc dĩ tng s liên. Nghĩa là: Hoa tng người mình trng. Gương tng người ta say. Có người cho rằng, cô gái láng giềng trong bài thơ “Mộng đắc thái liên” của Nguyễn Du có thể là bà chúa thơ Nôm: Hồ Xuân Hương. Lại là một cách ước đoán không dựa trên một logic nào cả. Mãi về sau người ta phát hiện thơ Xuân Hương trong tác phẩm “Lưu hương kí” có bài “Nhớ bạn cũ”, Xuân Hương đề tặng đích danh “viết gởi Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu - Hầu người ở Tiên Điền huyện Nghi Xuân” (Nguyễn Hầu là tên gọi tôn xưng những người được phong tước bá - tức Nguyễn Du).

Dm khách muôn nghìn ni nh nhung
Cy ai ti đấy gi cho cùng
Mi tình chc đã ba năm vn
Gic mng ri ra na khc không
Xe nga trm mng duyên tp np
Phn son càng ti phn long đong
Biết còn my chút sương đeo mái
Lu nguyt năm canh chiếc bóng chong.

Thơ như thế là phơi mở ra trước nhật nguyệt một mối tình rất thực: Mi tình chc đã ba năm vn, chứ nào phải ngày một ngày hai gì đâu. Chỉ có điều nàng Xuân Hương - tác giả của “Lưu hương kí” và Hồ Xuân Hương (với Tổng Cóc và ông phủ Vĩnh Tường), cả hai nhân vật cùng tên này có phải là một? Và người ta lại ước đoán, lại đi tìm gương mặt tình yêu đích thực của Nguyễn Du là ai, mọi nghi vấn dường như vẫn mãi là nghi vấn. Còn đại chúng, đấy là cơ hội để trí tưởng thỏa mãn tình yêu một thiên tài mà tạo dựng thêm lên lớp lớp giai thoại, huyền thoại đẹp lung linh vây quanh Nguyễn Du, như một sự bày tỏ lòng ngưỡng mộ không biên giới của tất cả.

Mưa trong vườn Tiên Điền vẫn lấm tấm lay phay rắc hạt cùng gió từng cơn thổi qua phơn phớt lạnh. Hàng cây xà cừ dọc theo con đường làng Xuân Tiên thăm thẳm một thứ mù sa như dẫn lối đưa đường cho từng vọng tưởng. Vâng, chính hàng cây nầy đây, chỗ cánh cổng bước vào vườn ấy, ngày xưa anh em Nguyễn Tiên Điền mỗi lần đi săn về thường buộc ngựa nơi ấy, tiếng hí vang động cả khu vườn. Giữa không gian mênh mông và thanh vắng đó, tôi chợt nghe ra mơ hồ những thanh âm: Ào ào đổ lc rung cây. trong dường có hương bay ít nhiu. Đi giữa một nơi chốn mà nghe ra cây lá trong vườn xưa biết gieo rắc vào lòng người bao niềm xao xuyến. Cây lá còn biết tỏ tình như thế, huống là người. Và tôi cũng hòa điệu theo gió lá ấy lảy một câu Kiều: Tưởng người nên li thy người v đây!

N.N.T
(SDB13/06-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN VĂN DŨNG
                          
                        Bút ký

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                             Ký sự

    Trước Mậu Thân 1968, Thành đội Huế lập chiến khu ở giữa rừng phía đông tỉnh. Ban Chỉ huy Thành đội gồm Ban Tham mưu, Ban Chính trị, Ban Hậu cần.

  • NGUYỄN NGỌC PHÚ
                       Tùy bút

    Tôi tin rằng trong đời mỗi con người ai cũng qua quãng thời ấu thơ nghe tiếng ru của mẹ trong cánh võng “ầu ơ”; cứ thế mà lớn lên mà trưởng thành.

  • NGUYÊN QUÂN

    Đôi khi trong sự trầm lặng tĩnh mịch thường hằng, và những con người quen sống với sự tĩnh lặng ấy thường vô tình không nhận thấy những sự thay đổi chung quanh vì nó cũng âm thầm không xôn xao ầm ĩ.

  • HẢI HẠC PHAN
         Bút ký dự thi

    Con chim xanh tìm hạt dẻ sa cánh chợt khép mỏ vút bay khi nghe tiếng động cơ xe di chuyển về phía Tây dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                      Ký sự

    Tôi là phóng viên của báo Cờ Giải phóng - Thừa Thiên Huế. Sống ở trên chiến khu, đi viết, chúng tôi thường lên các bản vùng cao, đến các đơn vị quân đội đóng trong rừng, gặp các chiến sĩ từ vùng sâu lên,… chứ chưa đi vùng sâu lần nào. Dù biết vùng tranh chấp rất hấp dẫn, nhưng chưa có cơ hội.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                       

    Viết về bà mẹ anh hùng Nguyễn Thị Lớn, xã Thủy Dương (xã anh hùng) huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế.

  • HÀ LÊ
       Tản văn

    Cây gòn bên bến nước phía sông An Cựu đã bắt đầu bung nở những đám mây trắng đầu tiên. 

  • NGUYÊN QUÂN
            Bút ký dự thi

    Người đàn bà trung niên dừng lại giữa lưng chừng dốc rồi nói:
    - Đã tới nơi rồi chú.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ

                Bút ký dự thi

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                        Ghi chép

    A Lưới là một huyện phía Tây tỉnh Thừa Thiên Huế, có biên giới giáp nước bạn Lào.

  • LÊ HÀ

    Cây hoa gạo bên phía cầu Dã Viên sáng nay bỗng thắp lửa đỏ cả một khung trời. Cái màu đỏ chói lòa như ngọn đuốc rực cháy giữa một bầu trời xanh thẳm tháng ba còn vươn mùi ẩm lạnh.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                        Bút ký

    Đã hai năm nay tôi mới lại về thăm nhà máy sợi Huế. Cái đập vào mắt tôi trước tiên là bức tượng những bàn tay con gái rất đẹp, các ngón thon thả, tất cả đều giơ lên, nâng cao búp sợi trắng ngần. Bốn xung quanh là những vòi nước phun, rất mảnh, như những dòng sợi mỏng manh bay lên.


  • LÊ QUỐC HÁN

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO

    Những khoảnh khắc mùa trôi đi trong dòng mưa ngút ngàn. Vùng này, mưa không ngớt mà nắng cũng chát chao. Khoảng khắc không nhớ bỗng dưng lại khiến người ta không thể nguôi ngoai về một điều đã cũ.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                        Bút ký

    Tưởng nhớ Phan Thế Phương và Nguyễn Như Tùng

  • LÊ QUỐC HÁN

    Mùa thu mùa của chia ly
    Nên con sông chảy chẳng khi nào ngừng

  • VIỆT HÙNG
            Ghi Chép

    Vào một đêm mùa thu của Hà Nội ông Nguyễn Ngọc Dũng, vụ trưởng thanh tra Bộ tài chính, trong một giấc mộng, ông thấy người anh ruột của mình hiện về.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ  
                   Bút ký  

    1.
    Bất giác, văng vẳng “con đường cái quan” Phạm Duy ca rằng:
    “Người về chưa ghé sông Hương
    Đã nghe tiếng gọi đôi đường đắng cay”

  • CHÂU PHÙ  

    Tôi về đây giữa mùa hạ khi cơn mưa rào rạt trên biển vắng, gieo hoang vu xuống chiều xa xăm. Từ trong lều quán nhìn ra biển, một màu xám giăng ngang trời.