NGUYỄN NHÃ TIÊN
tùy bút
Tưởng người nên lại thấy người về đây
(Nguyễn Du)
Làng văn hóa Tiên Điền - Ảnh: internet
Đã bao lần có dịp hành hương về Tiên Điền - quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du, nhưng rơi vào giữa một ngày mưa lất phất thì quả đây là lần đầu tiên tôi nếm trải. Hình như gió lạnh và mưa bụi mỏng mảnh đầy trời, cọng hưởng với vô vàn tiếng lá lao xao trong vườn Tiên Điền, dễ khiến con người ta quên đi thực tại mà vọng tưởng đến âm vang người xưa đâu đây. Bước vào nhà bảo tàng Nguyễn Du, xem từng di vật, từ nghiên mực Nguyễn Du thường dùng đến bộ tách uống rượu…, mỗi thứ một linh hồn, tất cả lặng im hay là thăm thẳm tiếng nói tịch ngôn bao phủ một niềm bí mật, gợi mở ra thế giới vô tận của người xưa.
Sinh ra tại phường Bích Câu - Thăng Long, cho đến cuối đời mất tại Huế, kì thực Nguyễn Du về ở tại quê hương Tiên Điền của mình không nhiều so với cuộc đời dằng dặc có hơn nửa thế kỉ, từng bao nỗi thác ghềnh dằn xé số phận của một thiên tài. Người ta ước đoán rằng, trong quãng thời gian không nhiều, độ năm, sáu năm về sinh sống tại quê nhà, đấy là những tháng năm thanh bần nhất trong cuộc đời Nguyễn Du. Biển Nam mênh mông làm người đi câu (Nam hải điếu đồ), hay Hồng Sơn chín mươi chín ngọn làm gã thợ săn (Hồng Sơn liệp hộ), chính thời gian này, đa phần các tác phẩm văn Nôm “văn chiêu hồn”, và “truyện Kiều” đã được viết ra tại đây.
Bây giờ người xưa vẫn đang ở đây! Cái “Lời quê chắp nhặt dông dài” ngót ba nghìn năm trăm hai mươi tư câu, cái bản Kiều chữ Nôm in vào năm 1902 giấy đã ố vàng, nằm im lặng trong chiếc tủ kính của nhà bảo tàng. Một sự im lặng tỏa sáng, một sự im lặng chừng như là tột cùng đỉnh cao của mọi âm thanh, mà sức vang hưởng làm động vọng cả thời gian và trái tim của cả nhân loại. Tôi nhớ Đàm Văn Chí, trong Lịch sử văn hóa Việt Nam đã viết rằng: “Truyện Kiều cực kì diễm lệ hào hoa phù hợp với tuổi trên ba mươi của Nguyễn Du (tức là thời gian ông về lại Tiên Điền - 1796) thông thường là ở mức độ phong nẫm về tình ý, lại có vẻ thực vì chính đó là vang dội của những mối tình đẹp của riêng mình, có tính dở dang bi kịch và bạc mệnh”. Đến nhà viết sử cũng lãng mạn theo người xưa mà đoán định Truyện Kiều rằng: “Chính đó là vang dội của những mối tình đẹp”. Thế nên đi trên đất Tiên Điền vang bóng cảnh cũ người xưa, chập chùng bao giai thoại về tình yêu của Nguyễn Du như muốn thi thố với rêu xanh mà tươi tốt.
Theo câu hát ví của Nguyễn Du viết “Thác lời trai phường nón Tiên Điền gởi gái phường vải Trường Lưu”, tôi thử một cuộc “điền dã” bằng tâm tưởng. Nghĩa là từ khu vườn Tiên Điền này đây, ngày xưa anh em Nguyễn - Tiên Điền từng men theo con đường dưới chân ngọn Hồng Lĩnh, đạp sim mua vượt dải Ngàn Hống qua phường vải Trường Lưu hát ví. Sẽ khó mà đoán định ra nơi nào là bến sông Cài, nơi cô lái đò từng liều lĩnh vượt mưa to gió lớn chèo thuyền đưa Nguyễn Du qua sông cho kịp đêm hát: Sóng to thuyền nhỏ khó sang. Thiếp nguyền thiên địa giúp chàng một phen. Mối tình nảy nở từ đó, để Nguyễn Du viết trong bài hát ví của mình: Tiếc thay duyên Tấn phận Tần. Chưa quen đã lạ chưa gần đã xa… Hồng Sơn cao ngất mấy trùng. Sông Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu. Và rồi còn bao hồng nhan khác nức tiếng phường vải Trường Lưu, những nàng Uy, nàng Sạ, những sắc nước hương trời khác… đến nỗi huyền thoại cả một vùng đất làm say lòng giống nòi tình: Muốn tắm mát thì lên giếng Đoài. Muốn lấy vợ đẹp hỏi người Trường Lưu.
Nhưng tại sao cứ là những giai thoại, không chỉ đầy hư ảo ở Tiên Điền, mà ngay trên đất Bắc - Thăng Long, nơi Nguyễn Du sinh ra và lớn lên, một thời hoa niên đẹp đẽ những giấc mộng đại toàn, lại cũng vẫn những giai thoại. Ai ơi chèo chống tôi sang. Kẻo trời trưa trật lỡ làng tôi ra. Câu chuyện tình với cô lái đò sông Nhị đã đưa đón Nguyễn ngày ngày đến lớp học bên kia sông, là do dân gian sáng tạo ra hay là hiện thực. Dấu vết những tình yêu không lưu lại trong thơ Nguyễn Du chút bóng dáng nào ư? Có đấy, nhưng lại cũng mơ hồ, để từ đó trí tưởng của đại chúng lại thêu dệt thêm hoa gấm, cho sương khói cùng với thời gian ngày mỗi hư ảo lung linh hơn. Bài thơ “Mộng đắc thái liên” (Mộng thấy hái sen) của Nguyễn Du là một trường hợp như thế… Kim thần khứ thái liên. Nãi ước đông lân nữ. Bất tri lai bất tri. Cách hoa văn tiếu ngữ… (Sáng nay đi hái sen. Hẹn cùng cô láng giềng. Đến lúc nào không biết. Nói cười sau khóm sen…). Người đẹp hái sen ở hồ Tây để Nguyễn hẹn hò mơ mộng ngày ngày vác cần câu ra ngồi câu là ai thế? Thật khó có thể trả lời một cách cụ thể, cho dù thơ ấy rõ ràng đã nói lên tình yêu của Nguyễn Du: Hoa dĩ tặng sở úy. Thực dĩ tặng sở liên. Nghĩa là: Hoa tặng người mình trọng. Gương tặng người ta say. Có người cho rằng, cô gái láng giềng trong bài thơ “Mộng đắc thái liên” của Nguyễn Du có thể là bà chúa thơ Nôm: Hồ Xuân Hương. Lại là một cách ước đoán không dựa trên một logic nào cả. Mãi về sau người ta phát hiện thơ Xuân Hương trong tác phẩm “Lưu hương kí” có bài “Nhớ bạn cũ”, Xuân Hương đề tặng đích danh “viết gởi Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu - Hầu người ở Tiên Điền huyện Nghi Xuân” (Nguyễn Hầu là tên gọi tôn xưng những người được phong tước bá - tức Nguyễn Du).
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Cậy ai tới đấy gởi cho cùng
Mối tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sương đeo mái
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
Thơ như thế là phơi mở ra trước nhật nguyệt một mối tình rất thực: Mối tình chốc đã ba năm vẹn, chứ nào phải ngày một ngày hai gì đâu. Chỉ có điều nàng Xuân Hương - tác giả của “Lưu hương kí” và Hồ Xuân Hương (với Tổng Cóc và ông phủ Vĩnh Tường), cả hai nhân vật cùng tên này có phải là một? Và người ta lại ước đoán, lại đi tìm gương mặt tình yêu đích thực của Nguyễn Du là ai, mọi nghi vấn dường như vẫn mãi là nghi vấn. Còn đại chúng, đấy là cơ hội để trí tưởng thỏa mãn tình yêu một thiên tài mà tạo dựng thêm lên lớp lớp giai thoại, huyền thoại đẹp lung linh vây quanh Nguyễn Du, như một sự bày tỏ lòng ngưỡng mộ không biên giới của tất cả.
Mưa trong vườn Tiên Điền vẫn lấm tấm lay phay rắc hạt cùng gió từng cơn thổi qua phơn phớt lạnh. Hàng cây xà cừ dọc theo con đường làng Xuân Tiên thăm thẳm một thứ mù sa như dẫn lối đưa đường cho từng vọng tưởng. Vâng, chính hàng cây nầy đây, chỗ cánh cổng bước vào vườn ấy, ngày xưa anh em Nguyễn Tiên Điền mỗi lần đi săn về thường buộc ngựa nơi ấy, tiếng hí vang động cả khu vườn. Giữa không gian mênh mông và thanh vắng đó, tôi chợt nghe ra mơ hồ những thanh âm: Ào ào đổ lộc rung cây. Ở trong dường có hương bay ít nhiều. Đi giữa một nơi chốn mà nghe ra cây lá trong vườn xưa biết gieo rắc vào lòng người bao niềm xao xuyến. Cây lá còn biết tỏ tình như thế, huống là người. Và tôi cũng hòa điệu theo gió lá ấy lảy một câu Kiều: Tưởng người nên lại thấy người về đây!
N.N.T
(SDB13/06-14)
NGUYỄN THỊ THANH SUNGLGT:Bà Nguyễn Thị Thanh Sung sinh năm 1949 tại An Cựu (Huế), cựu học sinh Đồng Khánh, cựu giáo sinh trường Sư phạm Qui Nhơn, dạy tiểu học ở Quảng Tín (Quảng Nam ngày nay). Năm 1973, lấy Bill Fleming cố vấn an ninh tại Toà Lãnh sự Hoa Kỳ tại Huế. Năm 1974, bà theo chồng qua định cư ở Mỹ. Bill vẫn tiếp tục phục vụ trong Bộ Ngoại Giao. Hiện bà sống cùng gia đình tại Potomac, Maryland .
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Rút từ tuyển tập Hồn mai – tuỳ bút – NXB Thuận Hoá và Công ty Văn hoá Phương Nam phối hợp thực hiện, năm 2008)
TRẦN ĐƯƠNG(Viết theo lời kể của một số cán bộ và sinh viên, học sinh Việt Nam, từng công tác và học tập tại Liên Xô)
LÝ HẠNH Đất trời đã bước vào độ cuối xuân, vẫn còn những cơn mưa bụi lất phất và cái rét dìu dịu thả xuống nhân gian như những sợi tơ trời.
ĐỖ KIM CUÔNG Câu chuyện của 27 năm về trước...
PHƯƠNG LAN LTS: Sông Hương nhận được tin và bài về một phụ nữ "nuôi mộ liệt sĩ" đã 15 năm, nay muốn trả lại cho gia đình của liệt sĩ nhưng không biết nhắn gửi vào đâu. Vì câu chuyện nghĩa cử đầy cảm động này và vì không chỉ là thông tin nên Sông Hương xin in luôn cả bài viết sau đây, mong bạn đọc xa gần, trong điều kiện có thể được thì nhắn tin sớm cho gia đình người liệt sĩ này.
NGUYỄN HỮU THÔNGĐã từ lâu lắm, chúng tôi mới có dịp gặp gỡ đông đủ như thế này. Nhận ra nhau rồi mới giật thót mình nhìn lại; ai cũng tưởng chỉ mới hôm qua, và cái khoảng mơ hồ dẫn đến hôm nay, sao đã làm tóc mọi người bạc đi nhiều thế.
LÊ QUÝ LONGThông lệ cứ mỗi buổi sáng uống xong cốc càphê tôi đến mở phòng tranh. Ngày 1 tháng 11 năm 1999 chừng tám giờ sáng, ngoài đường nước đã lên phủ khắp mặt nhựa. Suốt đêm qua cho đến lúc này trời vẫn mưa to.
ĐỖ KIM CUÔNG Ấn tượng dai dẳng trong tôi mỗi khi nhớ về Huế vẫn là những trận mưa rả rích kéo dài lê thê hết ngày này sang ngày khác. Mưa có khi cả tháng trời. Mưa ngày rồi lại mưa đêm. Có lúc những cơn mưa rào kéo sầm sập như thác đổ. Lúc mưa nổi bong bóng nước. Mưa rừng càng buồn nản hơn.
ĐỖ KIM CUÔNG Cái ấn tượng không lấy gì làm vui vẻ và đẹp đẽ của tôi về chị xảy ra vào những ngày đầu tiên khi tôi trở thành người lính của đại đội 3, K10, thuộc công trường V về trụ bám ở vùng giáp ranh Hương Trà.
ĐẶNG NHẬT MINHCha mẹ tôi là những người Huế. Quê nội tôi ở An Cựu và quê ngoại ở làng Lại Thế. Tôi nghe bà tôi kể: đám cưới cha mẹ tôi là một đám cưới chạy tang.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày thoát ly lên rừng (mùa hè 1966), tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường được Thành ủy cho ở trong một cái nhà lá dựng ở lưng chừng một ngọn đồi sau dãy núi Kim Phụng. Đến bữa có người phục vụ bưng cơm lên ăn. Thật thoải mái, không phải lo sinh nhai, không phải lo giữ lời ăn tiếng nói sao cho hợp pháp, không còn sợ bị bọn mật vụ, CIA đến viếng nhà, đến trụ sở đấu tranh "hỏi thăm sức khỏe".
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGMột hôm nhân rỗi việc, tôi ngồi thả câu nơi một bến đá quen thuộc ven sông Hương. Chỗ này cá nhiều ăn không kịp giật. Bỗng cái phao của tôi trôi đi vùn vụt như thể có người kéo. Tôi vung mạnh tay, một chú cá chép mắc câu nhảy đành đạch trên mặt cỏ. Bất ngờ nó thở hổn hển và nói với tôi bằng tiếng người: rằng nó là con vua Thuỷ Tề, đi tuần thú dọc sông Hương, đã bị tôi bắt được. Nó năn nỉ xin tôi thả ra, sau đó nó sẽ đền ơn bằng cách thực hiện cho tôi ba điều ước.
TRẦN HOÀNG PHỐKỷ niệm 45 năm thành lập Đại học Huế (1957-2002)1. Mặt trời, mặt trăng vẫn rạng rỡ soi, có lẽ cả ngàn năm trên cái giải đất Phú Xuân-Huế cỏ hoa thơ mộng, diễm kiều và tịch lặng này.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN Tôi đỗ vào Đại học Sư phạm Huế năm 1962. Lúc ấy tôi đã có Chứng chỉ Dự bị (Propédeutique) bên trường Đại học Văn khoa.
THOMAS MANNMANN, PAUL THOMAS, nhà văn Đức (1875- 1955). Sinh tại Lüberk trong một gia đình thương gia lớn. Cha là Johnann Heinrich Mann - một thượng nghị sĩ, đồng thời là thương gia. Mẹ là Julia con gái của một chủ trang trại người Đức và một phụ nữ gốc Bồ Đào Nha.
TRUNG SƠNĐó là truyện ngắn “Ngựa người và người ngựa” của cây đại thụ trong làng văn Việt : nhà văn Nguyễn Công Hoan. Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc, thể hiện rõ phong cách “truyện ngắn Nguyễn Công Hoan” nên đã hai lần được lấy làm tên các tập truyện ngắn của ông. (Lần đầu, do nhà Mai Lĩnh xuất bản năm 1934 và lần thứ hai do Nhà xuất bản Văn học in năm 1988).
XUÂN TÙNGNgày đầu xuân ở nước ta có nhiều phong tục đã được tồn tại lâu đời như tục xông đất, hái lộc, mừng tuổi: Vào những ngày đầu xuân, các tầng lớp nho sĩ còn có tục khai bút, cho chữ... vừa là thú vui, vừa là cung cấp cho những người thích xin chữ, xin câu đối về treo. Việc làm này mang một ý nghĩa văn hóa thú vị.
PHẠM THỊ CÚCMột ngày đẹp trời chúng tôi “lên đường” bằng... ô tô, đi câu cá ở một cái hồ xa xôi tận miền đông bắc nước Mỹ.
VĨNH NGUYÊNTrước mặt tôi là thăm thẳm sâu hút chập chùng xanh đến rợn người mà thích thú làm sao! Hồ Truồi trong vắt dưới chân như ta có thể rơi tòm xuống đó nếu không may để sẩy bước hụt. Và, sau lưng tôi là chót đỉnh Bạch Mã gần kề như chỉ còn một tầm tay với. Nơi đây, mang cái tên lộng lẫy: Vọng Hải Đài!