Vườn thư pháp - Ảnh: Hồ Vĩnh
Trải qua gần hai thế kỷ trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chiến tranh tác động khiến nhiều lăng mộ hư hỏng nặng. Gần 20 năm trở lại đây lăng tẩm các vua nhà Nguyễn đã được Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế (TTBTDTCĐ Huế) bảo vệ, chăm sóc gìn giữ. Ngoài việc tuyển dụng nhân viên bảo vệ mới nhưng TTBTDCTĐ Huế vẫn lưu dụng một số lính hộ lăng cũ. Theo lời giới thiệu, tôi tìm gặp những người hộ lăng (giữ lăng) như các cụ Phạm Hạp, Tôn Thất Ta, Đinh Văn Hùng... Cụ Hùng nguyên bảo vệ lăng Thiệu Trị nay đã nghỉ hưu cho biết: "Trước đây việc chăm sóc miếu điện, lăng tẩm triều Nguyễn thường dùng người trong tông tộc. Vì họ coi lăng mộ là những nơi yên nghỉ của linh hồn các vị tiên đế và phải tuân thủ các nghi thức tế tự được đặt ra từ trước. Nhiều chức năng quản lý công việc cũng được giao cho các quan Chánh giám sứ và Phó giám sư sơn lăng. Qua đời các vua Thiệu Trị, Tự Đức còn gọi là Thủ hộ chánh sứ, vị quan này điều hành công việc bảo vệ lăng tẩm". Còn cụ Phạm Hạp, cựu bảo vệ lăng khải Định nói: "Sau khi triều Nguyễn cáo chung công việc của chúng tôi được cất cử dưới sự chỉ đạo của một "ông đội". Mà "ông đội" thường giáo huấn chúng tôi phải luôn mang trong mình một tấm lòng thật trong trẻo và gạt ra mọi chuyện đời thường. Tôi nhớ một việc trong thời gian còn làm bảo vệ - một người dân ở trước lăng Khải Định chỉ lấy một viên đá tảng đem về nhà kê đồ dùng, nhưng không ngờ mang họa cho gia đình. Sau đó họ phải đưa viên đá ấy trả lại chỗ cũ". Cho hay bất cứ vật gì ở các lăng tẩm đều có "thần" giữ.
Quy định dưới thời vua Minh Mạng thì việc tuyển dụng lính hộ lăng đều lấy người dân ở các xã lân cận nơi có khu lăng tọa lạc. Cụ Lê Vân ở xã Thủy Xuân cho tôi xem tờ chiếu có ấn ký "Quốc gia tín bảo" mà cụ cất giữ đã 175 năm. Tờ chiếu đề ngày 26 tháng 3 năm Minh Mạng thứ 6 (1825) ban cho ông cố sơ của cụ là Lê Văn Mạo thuộc lính hộ lăng có công chăm sóc lăng tẩm, miếu mộ: "Chiếu ông Lê Văn Mạo ở thập 1 đội 7 thuộc quân Trung vệ giữ lăng quê Dương Xuân (nay xã Thủy Xuân), tổng Vỹ Dã, huyện Hương Trà, phủThừaThiên được chuẩn cho thực thụ chức đội trưởng tước Mạo tài bá, ở nguyên thập 1 thuộc vệ đội cũ, cai quản lính trong thập, theo sự cất cử công việc vủa viên suất đội. Nhược bằng thiếu cần mẫn trong công việc thì chiếu theo quân pháp mà xử lý. Kính đấy!". Cụ Lê Vân cho biết thêm ngoài số lính trên, ở lăng Tự Đức còn có các cô phụng trực lo việc quét dọn hương khói. Nhà thơ Vân Bình Tôn Thất Lương khi thăm lăng Tự Đức đã chứng kiến tận mắt: "Dâng hương đầu bạc bốn năm cô/Quét lá áo xanh ba bốn chú". Hôm mới rồi Tuần Văn hóa Thụy Sĩ đã khai mạc tại nhà Tả Vu (Đại Nội Huế), tôi đứng lại trước một bức ảnh trong tổng số 159 bức ảnh Việt Nam đầu thế kỷ XX do Đại sứ quán Thụy Sĩ trao tặng TTBTDTCĐ Huế; đó là bức ảnh chụp 8 cô phụng trực với dòng chú thích "Các cô phụng trực đứng trước điện Hòa Khiêm - lăng Tự Đức". Xem xong tôi nhớ tới một cô phụng trực cuối cùng hiện còn sống ở Huế. Tôi đến nhà cô Tôn Nữ Thị Kính ở phường An Cựu. Cô Kính thuật lại: "Lúc 12 tuổi tôi theo bà cô của tôi lên ở lăng Thiệu Trị, tiếp đến lăng Tự Đức, rồi đến lăng Khải Định. Ở lăng công việc của tôi buổi sáng quét dọn trong điện, thắp nhang và hầu nước, tức cúng trà. Trước ngày có lễ kỵ thì lau chùi các đồ bảo vật. Đến năm 1992 do tuổi già sức yếu nên tôi xin nghỉ. Tôi tưởng về nhà không ai quan tâm, nhưng năm nào TTBTDTCĐ Huế có cử nhân viên sang thăm và tặng quà. Anh Lê Đình Sáu, trưởng phòng Quản lý bảo vệ thuộc TTBTDTCD Huế cởi mở tiếp tôi tại văn phòng. Anh Sáu cho biết hiện nay lực lượng bảo vệ di tích có gần 200 cán bộ, nhân viên. Trên địa bàn gần 30 đơn vị trực thuộc phòng Quản lý bảo vệ, trong đó có thêm 7 di tích được khoanh vùng bảo vệ, đó là điện Voi Ré, Võ Miếu, Trấn Hải Thành, nhà lưu niệm bà Hoàng Thái hậu Từ Cung, Hải Vân quan, lăng Cơ Thánh và cụm di tích lăng chúa Nguyễn Hoàng, gồm 4 lăng là Trường Cơ, Trường Thiệu, Trường Thái, và Hải Đông Quận Vương (thôn Khe Trẹm, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà). Trong dịp Festival Huế 2000 chúng tôi đã tăng cường bảo vệ ở các di tích và có phương án tại chỗ. Lăng Gia Long nằm cách kinh thành Huế khoảng 16 km về phía Tây Nam. Khu lăng này rộng 2.875 ha, nhưng phần lớn các cấu trúc bên ngoài điện Minh Thành thì trao cho thiên nhiên hoàn thiện. Đứng giữa rừng thông có trên 100 năm tuổi, tôi mới tìm lại được ý thức về sự hòa hợp với thiên nhiên. Ở đây không gian hoang phế đã được đẩy lùi. Anh Nguyễn Văn Di, tổ trưởng bảo vệ lăng Gia Long chân tình nói: "Anh em bảo vệ không chỉ làm một việc "đứng gác" các công trình kiến trúc mà còn phối hợp mở rộng diện tích làm vệ sinh, bảo đảm cảnh quan trong, ngoài cũng như các khu vực tiếp giáp của di tích, bảo vệ rừng thông cổ, trồng thêm mới nhiều thông, làm tăng thêm mỹ quan chung của di sản văn hóa". Tôi đến lăng Tự Đức vào một chiều êm ả, tiếng ve ngân nga vang lừng cả khu lăng. Từ trên thềm bậc rồng nhìn xuống hồ Lưu Khiêm, tôi thấy trong lòng bỗng lắng xuống một cảm giác bình an khôn tả. Anh Nguyễn Văn Trung, nân viên bảo vệ tâm sự: "Tổ bảo vệ chúng tôi gồm 16 người và được bố trí công việc theo lịch trực. Riêng tôi phụ trách bảo vệ từ lăng mộ Lệ Thiên Anh hoàng hậu (vợ chính vua Tự Đức) đến mộ vua Kiến Phúc và điện Chấp Khiêm. Hàng ngày chúng tôi quét dọn làm sạch khuôn viên nội tẩm, các bức tường xung quanh, xử lý các cây bám vào tường. Trong những ngày diễn ra Festival Huế 2000 thì số lượng du khách đến tham quan quá đông nên nhiệm vụ và trọng trách công việc lại nhiều, không những bảo vệ bên trong mà còn phải tuần tra bên ngoài khu lăng, bảo đảm tuyệt đối an toàn cho du khách". Theo quy chế của triều Nguyễn khi xây dựng lăng tẩm đều có cắm mốc giới để bảo vệ cảnh quan công trình. Mới đây trong đợt khảo sát thực địa trên vùng đồi núi xã Thủy Xuân, chúng tôi đã tìm thấy một cột mốc giới bị cây bụi phủ lấp. Cột mốc có hình trụ tròn, xây bằng đá gan gà cao 0,60m, đường kính 0,45m, chung quanh trát vôi vữa. Đây là cột mốc giới hiếm hoi còn lại nằm bên ngoài tường thành lăng Tự Đức khoảng 100m về phía Đông. Cụ Lê Vân là người địa phương nói: "Khi xây dựng khu lăng thì đã có cột mốc giới này". Số liệu của TTBTDTCĐ Huế cho biết, số hộ vi phạm đất khoanh vùng bảo vệ trong đó có khu di tích các lăng Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân là 21 hộ (89 khẩu và 1.460m2); lăng Tự Đức 12 hộ (40 khẩu và 672m2). Anh Thân Bá Trọng, tổ trưởng bảo vệ lăng Tự Đức nói: "Hiện nay chúng tôi phải căn cứ vào mốc giới để xác định vùng quản lý di tích". Qua việc tìm thấy cột mốc đá cổ ở khu vực lăng Tự Đức, chứng tỏ việc khoanh vùng bảo vệ cảnh quan di tích có cách đây hơn 100 năm. Cố đô Huế D.Q.A (135/05-00) |
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.