Vĩnh biệt nhà thơ - dịch giả Diễm Châu (1937-2006)

09:49 30/10/2008
Nhà thơ, dịch giả Diễm Châu, sinh năm 1937 tại Hải Phòng. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài gòn, sau đó tu nghiệp tại Hoa Kỳ về truyền thông. Trước 1975, ông làm Tổng thư ký Tạp chí Trình Bầy. Định cư tại Strasbourg, Pháp từ 1983 cho đến ngày tạ thế. Ông đã vĩnh viễn ra đi vào sáng ngày 28 tháng 12 năm 2006.

Tác phẩm của Diễm Châu gồm Hạnh hoa, Sáng mùa Thu, Thơ Diễm Châu, Mười bài ở Paris . Đóng góp quan trọng của Diễm Châu là văn học dịch. Ông đã giới thiệu hàng trăm tác giả quốc tế qua hàng ngàn bản dịch Việt ngữ, từ thơ các nước như Nga, Pháp, Anh, Mỹ đến Rumani, Nicaragua, Peru, Palestine, Armenia, Guatemala v.v...
Xin giới thiệu với độc giả tạp chí Sông Hương chùm thơ của nhà thơ Nga YEVGUENY YEVTUSHENKO để tưởng niệm nhà thơ, dịch giả Diễm Châu.

YEVGUENY YEVTUSHENKO

Những cánh cửa

Một chiếc xắc tay báu vật,
đôi chút hãi hùng trong mắt,
những sợi tóc uốn lọn hai bên thái dương
thành những chấm hỏi.
Và này đây
                   buồn bã
                                 và nặng nề
a! đây là nhà nàng.
Không bao giờ
                       tôi được biết
                                            khu mộ địa chung quanh
và, tạ ơn Trời, tôi đoán thế,
sẽ chẳng bao giờ rành rẽ.
Trước cửa nhà nàng, nơi tôi đưa nàng về,
chúng tôi rời nhau mau lẹ:
một nụ hôn, một cái vuốt ve
nhưng ánh mắt nàng làm tôi khổ sở
ánh mắt ấy vấy một nỗi buồn
tựa như sự sợ hãi.
Tôi không lạ gì cái trò chơi ấy của phụ nữ:
Ta ôm nhau
                    và ta mơn trớn,
bước qua cánh cửa
                              là ta quên.
Phải,
những cánh cửa đã làm tôi khôn ra.
Quá thường khi,
                          ở nơi này nơi kia,
tôi đã bị xúc phạm nặng nề.
Chính bởi thế
                      mặc dù tôi hoàn toàn không muốn,
bởi không còn tin tưởng vào ai,
trên ngưỡng cửa nhà em
                                      tôi đã bỏ em lại
và nguyền rủa,
                        nguyền rủa cánh cửa nhà em.
Ký ức tôi trung thực với tôi.
“Anh đừng ngủ quên”, nó bảo.
Trong đôi cánh tay em
                                   em nâng niu chiều chuộng tôi
nhưng em sẽ trở thành người đàn bà nào khác
ngay khi cánh cửa nhà em khép lại?

Những giọt nước mắt

Thủa ấy người ta đã bảo tôi:
                                             “mi rồi sẽ nuối tiếc
những của cải mất đi mà mi yêu dấu”.
Thủa ấy người ta đã bảo tôi:
                                             “mi rồi sẽ khóc
khi những người khác rỏ nước mắt”.
Tôi đã thấy chúng những giọt nước mắt này.
                                                       Tôi đã thấy mẹ tôi khóc:
bà đứng,
              tay buông thõng,
đôi vai mỏng manh
              lay động,
và đó là vì lỗi tại tôi.
Cũng như em đã khóc,
                                    em, người yêu dấu của tôi,
khi tôi phóng tới, với đợt khói,
những lời ác nghiệt ngay giữa mặt em,
những lời chua chát và xúc phạm!
Ôi ! lúc ấy em đã ganh với các bạn em biết mấy
và chỉ nhìn tôi cũng đủ làm em đau đớn xiết bao!
Kiêu hãnh,
                  em đã ngẩng đầu lên
để cầm nước mắt.
Hôm nay tâm hồn tôi kiêu căng mới thật buồn,
tâm hồn tôi đã bị chính sức nặng của mình nghiền nát,
Ấy đó
          cái giá thật khủng khiếp
của những giọt nước mắt
                                       mà tôi đã gây nên.

Trò chuyện

Người ta bảo tôi:
                         -“Anh thật là can đảm.” 
Tôi can đảm ?
                      Nhưng can đảm ở đâu vậy?
Thật đơn giản, tôi cho là bất xứng
chuyện luồn cúi với bọn khiếp nhược.
Tôi chả “san bằng” một điều gì hết.
Thật dơn giản tôi đã chọn làm bia
                      dối trá và khoa trương.
Tôi chỉ có những bài mình viết làm vũ khí
                      nhưng không một bài nào là của tên chỉ điểm.
Nếu tôi bênh vực người có thực tài,
bêu diếu bọn văn nhân giả mạo,
ấy chẳng phải một nghĩa vụ tầm thường sao?
A! hãy chấm dứt cái chuyện tôi can đảm!

Tôi nghĩ tới sự hổ thẹn
của con cháu chúng ta,
                                    khi, thanh toán điều xấu xa, ô nhục,
chúng sẽ nhớ tới
                                    cái thời buổi lạ lùng này
khi sự ngay thẳng bình thường nhất
                                    được gọi là can đảm.

(nguồn: TCSH số 217 - 03 - 2007)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)

  • Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis

  • Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.

  • Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch

  • Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp

  • Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.

  • XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)

  • Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).

  • Ludmila TatianitchevaTuổi tôi

  • OCTAVIO PAZ        Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt

  • LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.

  • LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)

  • WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)

  • FRED MARCHANT (Mỹ)                 Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.

  • Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.

  • PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP

  • LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.

  • Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.

  • RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865  Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào  chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.