Vài ý kiến về vấn đề bảo tồn Nhã nhạc

10:26 10/01/2012

VĨNH PHÚC

Nhã nhạc được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại không chỉ với thiết chế cổ xúy và ty trúc (Đại nhạc, Tiểu nhạc) như hiện nay.

Cuộc viếng thăm của Hoàng Thái tử Nhật Bản tại Học viện Âm nhạc Huế

Tuy nhiên để phục hồi, phục chế thể chế bát âm của Nhã nhạc không phải ngày một ngày hai. Các loại nhạc khí, dù là những nhạc khí đã thất truyền không còn người sử dụng được như biên khánh, biên chung, chúc, ngữ, huân... vẫn phải phục chế lại. Trước mắt là để trưng bày chuyên biệt như một nhà bảo tàng Nhã nhạc, với đầy đủ các chủng loại nhạc khí thuộc thiết chế Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn, và sau nữa là để phục vụ nghi thức trong việc phục dựng lễ Tế giao, thiết Đại triều... và dù chỉ trưng bày mà không đánh như sử sách đã nêu. Đồng thời, tránh tình trạng làm què quặt và nghèo nàn đi một di sản văn hóa quý giá của dân tộc.

Các nhạc cụ thuộc nhóm Ty trúc, nhất là Sáo và đàn Tỳ bà nên chỉnh lại âm theo lối xưa, không nên dùng nhạc cụ cải tiến, gắn thêm phím, khoét thêm lỗ bấm… Trong truyền dạy, khi chưa có một lối ký âm bài bản hoàn chỉnh thì nên tận dụng lối truyền khẩu. Phần ký âm theo kiểu “đô rê mi”, hoặc dù có phiên thêm “họ xừ xang” cũng chỉ nên xem là “phần cứng” để học viên tự vỡ bài, còn việc lên lớp trực tiếp với nghệ nhân mới là phần chủ yếu - kể cả đàn và ca. Với lối dạy truyền khẩu của nghệ nhân, học viên mới lĩnh hội được sự “non, già”, “rung”, “vỗ” đặc trưng của từng bậc âm, từng loại hơi, từng loại bài bản.

Tại Học viện âm nhạc Huế hiện nay, Khoa Âm nhạc di sản đang tiếp tục đào tạo bậc đại học chuyên ngành Nhã nhạc (đã được mở mã ngành từ năm 1996) và Ca đàn Huế. Mặc dù đến nay vẫn chưa có một “đặc chế, đặc lệ” trong việc đào tạo lực lượng kế thừa cho loại hình nghệ thuật di sản, như ý kiến Giáo sư Tô Ngọc Thanh bàn về việc đào tạo “nghệ nhân” thay cho “cử nhân” trong Hội thảo Đào tạo âm nhạc di sản khu vực miền Trung - Tây Nguyên tại Học viện âm nhạc Huế tháng 10 năm 2009… Nhưng trong giảng dạy chuyên ngành, khoa vẫn duy trì lối dạy truyền khẩu với đội ngũ nghệ nhân truyền dạy như Trần Thảo, Lệ Hoa, Kim Vàng, Thanh Tâm….

Điều kiện mà UNESCO đặt ra đối với các kiệt tác đã được ghi vào danh mục nhân loại rất nghiêm ngặt. Đó là yêu cầu chống nguy cơ thất truyền và cải biên. Vì vậy, được ghi tên vào danh mục đó đã khó, nhưng giữ nó còn khó hơn. Một thời gian, để “hiện đại hóa” vốn cổ, có lúc dàn nhạc đã được bổ sung thêm nhạc cụ, mở rộng âm vực dàn nhạc theo kiểu tổ bộ của dàn nhạc giao hưởng (!)… Gs.Trần Văn Khê cũng đã từng lên tiếng cảnh báo: “Dàn nhạc giao hưởng phương Tây có đến hơn một trăm cây đàn, đó là nét đặc trưng của họ. Dàn nhạc cung đình Việt Nam cũng có nét đặc sắc riêng, nếu thêm vào đó vài cây sáo, năm bảy cây đàn tranh, chục cây đàn nguyệt... thì làm sao nghe được âm sắc của từng loại nhạc cụ? Điều này cũng giống như không ai được quyền nối dài cánh tay Venus trong bức tượng Venus de Milo hoặc tô đỏ đôi môi nàng Mona Liza. Nói chung, di sản là thứ không thể can thiệp vào”.

Công việc này đã có dự án, kế hoạch dài lâu của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, nhưng trước mắt, theo tôi nên ưu tiên quan tâm đến việc phục hồi ban Nữ nhạc. Ban Nữ nhạc tuy tồn tại không lâu, nhưng vẫn nằm trong tổng thể Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn. Vì vậy, phục hồi ban Nữ nhạc vừa là một giải pháp bảo tồn vừa tạo được sự hấp dẫn, đặc thù trong việc tổ chức phục vụ du lịch Cung đình. Hơn nữa, dàn Nữ nhạc với các nhạc cụ phổ biến mà hiện nay vẫn đang sử dụng như: Tam, Tỳ, Nhị, Nguyệt, sáo, sinh tiền... thì việc đầu tư về thời gian và kinh phí là không đáng quan ngại.


Ảnh: tư liệu Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế

Thiết chế ban Nữ nhạc là thiết chế ty - trúc. Sử lieu cho biết, dưới thời Minh Mạng: Vua đặt ra bản nhạc Ngũ hưởng cho ban nữ nhạc tấu khi tế các Miếu và tuyển thêm 50 nữ nhạc dưới quyền hai nữ quan điều khiển, đợi lúc tế dâng rượu thì múa nhạc. Ban Nữ nhạc, rất có thể có liên quan đến tên gọi Tế nhạc hay Ty trúc Tế nhạc. Trong Âm nhạc truyền thống Việt Nam của Trần Văn Khê cho biết năm 1832 Đại nhạc và Tế nhạc dùng trong lễ đại triều, từ 1832 bỏ Tế nhạc… Nhưng tác giả lại nói: năm 1838 (Minh Mạng 19) chỉ có Ty trúc tế nhạc dùng để tấu nhạc trong các Miếu, và trong tế Văn miếu, dàn Ty trúc tế nhạc tấu nhạc theo điệu múa Văn… Trong lễ Thánh thọ, lục tuần Hoàng Thái Hậu năm Minh Mạng 1827, (một năm trước khi đổi tên thành Hòa thanh thự) có dàn Nữ nhạc gồm: trống lớn nhỏ, sinh tiền, đàn Nguyệt, đàn Tỳ bà, ống địch, đàn Tam, đàn Nhị.

Trong sách Những Đại lễ và Vũ khúc của vua chúa Việt Nam, Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề còn cho biết: trong lễ tế Thế miếu, nhạc công thự Hòa thanh giữ việc đánh chuông, trống. Ban Nữ nhạc đứng trên thềm, đợi ba tuần tế khi dâng rượu thì múa nhạc v.v. Qua tư liệu trên, mặc dù không được xác định một thể chế rõ ràng như Đại nhạc và Nhã nhạc, nhưng vẫn tồn tại một thể loại dàn nhạc. Các chi tiết về việc vua Minh Mạng bỏ Tế nhạc phù hợp với thời điểm bỏ ban Nữ nhạc trong các cuộc tế lễ vì bị cho là tà dâm… cùng với chi tiết ban Nữ nhạc trong Hòa thanh thự ở tế Thế miếu, và chỉ có Ty trúc tế nhạc dùng để tấu trong các miếu, trong Văn miếu thì tấu nhạc theo điệu múa Văn… cho chúng ta nghờ rằng: dàn Ty trúc tế nhạc trong quá khứ phải chăng là Ban Nữ nhạc?

Dù sao, sử sách cho biết đã từng tồn tại một dàn Nữ nhạc với đầy đủ cả hình ảnh trang phục, nhạc khí, nên không vì lý do gì mà không phục hồi lại tổ chức dàn nhạc này. Ít nhất là thể hiện được tính đặc thù của Nhã nhạc Việt Nam so với Nhật Bản, Hàn Quốc và chắc chắn sẽ hấp dẫn và thu hút được nhiều khách du lịch đến với Nhã nhạc, đến với Cố đô Huế.

V.P

(SH275/1-12)











 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Cuộc hội thảo bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế vừa được Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế tổ chức trong hai ngày 8 và 9.5, tại TP.Huế.

  • Tối 24/4, Sở Văn hóa thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai đã tổ chức lễ công bố Quyết định đưa Sử thi Bahnar vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Buổi lễ diễn ra tại Bảo tàng tỉnh (TP Pleiku, Gia Lai).

  • Ngày 28.1, UBND TP.Hội An (Quảng Nam) cho biết đã giao Trung tâm quản lý bảo tồn di sản văn hóa TP triển khai tu bổ, tôn tạo một số giếng cổ tại các phường: Minh An, Cẩm Phô trong năm 2015.

  • Từ lâu có một cuốn Lục Vân Tiên mà các nhà nghiên cứu ở miền Nam đánh giá là bản Nôm cổ nhất nhưng bị thất lạc. Gần đây, trong một lần viếng chùa cổ Long An, tình cờ cụ Nguyễn Quảng Tuân đã phát hiện, mang về hiệu chỉnh và công bố. Cũng với tình yêu vốn quý cổ truyền dân tộc, ông đã lặn lội khắp nơi trong và ngoài nước để sưu tầm, nghiên cứu, công bố nhiều tư liệu giá trị, đặc biệt là hàng loạt bản cổ khác nhau về Truyện Kiều.

  • Sáng 5/1 tại Ninh Bình, UBND tỉnh Ninh Bình chính thức công bố kế hoạch Lễ đón Bằng của UNESCO ghi danh Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới diễn ra ngày 22-24/1 tới.

  • HỒ VĨNH

    Sau một thời gian khảo sát thực tế, sáng 3/12/2014 Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế phối hợp với Sở Giao thông Vận tải Thừa Thiên Huế dựng lại bia đá “Đông Gia Kiều” ở phía đầu cầu Đông Ba theo hướng như bia đá đã dựng trước đây.

  • Thông tin từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (ngày 17/12) cho hay cơ quan này đã có quyết định xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với 12 di tích.

  • Phố cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn ở Quảng Nam được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới đến nay đã tròn 15 năm.

  • Những tư liệu ảnh của Viện Viễn đông bác cổ Pháp (EFEO) lần đầu công bố tại VN cho thấy nhiều cứ liệu lịch sử theo thời gian đã bị tiêu tan.

  • Ngày 1/12, thành phố Tel Aviv của Israel đã chính thức được Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là thành viên mới nhất trong mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO dành cho hạng mục Nghệ thuật Truyền thông.

  • LTS: Ông Pie Pisa (Pierre Pichard) là kiến trúc sư, chuyên gia nghiên cứu trùng tu di tích cổ của Unesco. Ông dã đến Huế 2 lần (lần thứ nhất vào năm 1978, ở lại 3 tuần làm bản tường trình dài về hiện trạng di tích Huế cho Unesco; lần thứ hai vào năm 1985). Bài dưới dây do kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn lược ghi ý kiến của ông phát biểu trong dịp đến Huế năm 1978. Đầu đề do chúng tôi đặt.
    S.H

  • Kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (gọi tắt là Công ước 2003) đã khai mạc ngày 24/11 tại trụ sở Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) tại Paris, Pháp.

  • Viện Hàn lâm khoa học xã hội VN vừa có Văn bản số 2116/KHXH gửi Thủ tướng Chính phủ về việc báo cáo niên đại, tên gọi, giá trị và đề xuất phương án bảo tồn di tích tâm linh đặc biệt thời Lý ở lô E.

  • VÕ VINH QUANG

    Trong nỗ lực phục dựng các di tích đặc biệt trong quần thể di tích Cố đô Huế, vừa qua, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô đã đầu tư 24,8 tỷ đồng trùng tu di tích lầu Tàng Thư. Đây là một tín hiệu Cực kỳ đáng quý, có tác dụng không nhỏ đối với việc xiển dương vị thế của vùng đất Cố đô cũng như góp phần giáo dục truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc.

  • Cho tới giờ, sau 4 lần UNESCO đề nghị phía VN giải trình về quản lý, bảo tồn, vịnh Hạ Long vẫn nằm trong danh sách bị khuyến cáo. Huế đã thoát án sau nhiều năm cố gắng. Làm sao để không rơi vào, hoặc thoát khỏi danh sách đen?

  • Tồn tại 143 năm (1802-1945), triều Nguyễn đã để lại nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô giá; trong đó, hệ thống di tích Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế… đã được công nhận là di sản thế giới. Gần đây nhất, Châu bản triều Nguyễn cũng được ghi danh vào chương trình ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO.

  • Ngày 13.9, quần thể khu di tích nhà Trần ở Đông Triều, Quảng Ninh sẽ nhận quyết định công nhận di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể này bao gồm 14 cụm di tích: đền An Sinh, lăng Tư Phúc, đền Thái, Thái Lăng, Mục Lăng, Ngải Sơn Lăng, Phụ Sơn Lăng, Nguyên Lăng, Đồng Hỷ Lăng, chùa Ngọc Thanh, chùa Ngọa Vân, chùa Tuyết, chùa Quỳnh Lâm và chùa Hồ Thiên.

  • Hội đồng Di sản quốc gia vừa công nhận 4 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Quảng Nam gồm: nghề dệt thổ cẩm và vũ điệu tâng tung da dá của đồng bào Cơ Tu; nghệ thuật trang trí trên cây nêu (ngoài sân); bộ gu (trong nhà) của đồng bào Co và lễ hội rước cộ Bà Chợ Được ở xã Bình Triều, H.Thăng Bình.

  • Các địa phương cần thống nhất đầu mối đơn vị quản lý nhà nước về di tích về các phòng di sản văn hóa thuộc các sở văn hóa, thể thao và du lịch. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương chủ trì việc quản lý và phát huy giá trị di tích, phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương.

  • Làng đá mỹ nghệ Non Nước nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng vừa được Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.