NGUYÊN HƯƠNG
Từ trung tâm thành phố, chạy thêm 25km về hướng Đông Nam sẽ gặp xã Phú Hải (thuộc huyện Phú Vang) gồm 4 ngôi làng tên Cự Lại: Cự Lại Đông, Cự Lại Bắc, Cự Lại Trung và Cự Lại Nam (dân làng thường gọi chung là Cự Lại). Những ngôi làng này nằm kề sát nhau, có chiều dài khoảng 2km, trải dọc ven biển và phá Tam Giang.
Làng Cự Lại nhìn từ đầm phá
Nghe người làng kể lại, Cự Lại có tên nôm là làng Trài, do ngài bổn Thổ Tiền Phan Quý Công và các vị Thủy tổ thuộc nhiều dòng họ khai hoang lập ấp từ cách đây hơn 400 năm. Dấu ấn các hiền nhân khai canh còn in rất rõ ở nơi này qua những ngôi Từ đường của các dòng họ và bia đá ghi khắc cả trăm năm. Đặc biệt, con cháu dòng họ Phan ở ngôi làng này chiếm số lượng nhân khẩu đáng kể, làm đủ các nghề từ trí thức đến lao động bình dân như làm mắm ruốc, làm nông nghiệp, đi biển, chạy chợ...
Trong sương mờ hiện ra, những chiếc lu vại trên khoảng sân rộng chừng 100 mét vuông của một gia đình ở thôn Cự Lại Trung mà tôi bất chợt nhìn thấy đã khiến tôi nghĩ ngay đến nghề làm mắm ruốc nổi tiếng ở xứ này. Mùi thơm của tôm cá bốc lên trong nắng mai, không câu nệ khoảng sân rộng hay hẹp mà chủ yếu là tấm lòng của người làm mắm. Qua nhiều dâu bể đổi thay, nghề làm mắm ruốc ở Cự Lại đã được thay bằng công nghệ mới cho năng suất và lợi nhuận cao hơn nhưng nhiều gia đình vẫn giữ nguyên cách làm thủ công truyền thống. Tôm, cá được giã tay, ủ muối và mang chưng cất cho đậm vị.
![]() |
Lu mắm trong làng |
Cùng với hoa giấy Thanh Tiên, tranh dân gian làng Sình, rượu gạo làng Chuồn thì mắm ruốc Cự Lại được xếp vào danh mục những nét văn hóa bản địa đặc trưng của huyện Phú Vang nói riêng và tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung. Mắm ruốc vừa chín tới, mùi thơm còn nguyên ở đáy lu sẽ được mệ già bới ra làm nước chấm cho món cá nục cuốn bánh tráng. Mệ bảo, dù chân yếu tay mềm rồi nhưng vẫn gắng làm mắm ruốc để khi nào đám con cháu ở Mỹ về thăm nhà còn có ăn vì “tụi hắn không chịu ăn mắm đi mua nhà khác mà phải do chính tay tui mần”.
Gió thổi về từ biển, mang theo dư vị của mặn mòi trùng khơi. Làng nhỏ, nối đuôi nhau chạy một mạch xuyên suốt từ Thuận An về phía đi ra cửa Tư Hiền. Những giậu thưa phơi đầy quần áo không một chỗ trống, chắc do bị để lại từ những ngày mưa vừa qua. Hoa giấy rơi ngập con hẻm nhỏ, tiếng đài radio xen lẫn trong tiếng dạ thưa của học trò chào người lớn trước giờ tới lớp.
Đợt trước, bão số 4 Sonca gây mưa lớn khiến con đường dẫn vào xóm nhỏ bị lụt đến nay vẫn còn nguyên vết bùn lầy đã khô cong. Người già nói bọn trẻ tan học buổi chiều phải xắn quần dắt xe lội bì bõm qua chỗ lụt để về nhà. Chúng cười đùa rả rích chứ không rầu rĩ như người lớn, vì thật ra cảm giác được lội nước mưa với đám bạn cũng vui lắm chứ. Con nít chứ có phải người lớn đâu mà lo lắng về hàng chợ hôm nay.
Thấy tôi rón rén đứng trước ngõ, mệ cố vẫy tay vào. Mệ đang ngồi bào rau môn để bán cho mấy hàng cơm hến. Mệ đã 82 tuổi, ở một mình không có con cái, mỗi khi trái gió trở trời cái lưng lại đau nhức nhối nên làm không được việc. Mệ bảo, bưa lắm cô ơi, tối ni mệ nhịn đói rồi. Tôi bảo, rứa mà bữa ni con tính đến ăn chực nhà mệ đây. Mệ cười khà khà, tội hỉ. Nói rồi mệ châm thuốc hút ngon lành.
Xóm mệ ở hầu hết là dân vạn đò, buôn thúng bán mẹt, cuộc sống còn nhiều cơ cực. Mấy hàng tạp hóa con con được dựng lên từ tre nứa và mấy tấm tôn, phải những ngày mưa bão là bị làm cho rời rạc. Lá tre rụng xuống đầy cửa, thi thoảng lại có con chuột chạy quanh kiếm chỗ thoát thân. Thế mà vui lắm, mệ bảo, xóm ni không có mấy hàng tạp hóa tạm bợ này là buồn lắm cô ơi, như ngày ni họ đóng cửa, nhà mô mà hết gói muối là mệt đó...
Chiều đến, cả xóm lao xao tiếng trẻ nhỏ vui đùa. Phụ nữ lúi húi trong bếp lo cơm nước củi lả, đàn ông tranh thủ chèo thuyền thả tay lưới mong bắt được đàn cá mới theo dòng nước lên. Người chồng vừa đi thuyền về, được một mớ cá ngon lắm. Cá đuối vừa bắt xong, vẫn còn giẫy đành đạch. Chị vợ nói với đứa con, tối ni nhà có món cá đuối nướng rồi.
Xóm nhỏ ấy có nhiều đối cực với vẻ mộng mơ trữ tình dễ bề tìm thấy, với những mảnh rời bé mọn, thiếu thốn được phơi ra. Thỉnh thoảng còn có cả những câu hát lạc nhịp của thợ thuyền những ngày rớt bão khều khào, không biết bấu víu nơi đâu để tối nay đàn con no bụng. Đôi mắt than van những nỗi lo mưu sinh, nắng mưa chi mà khắc nghiệt, đến nỗi tiếng thở dài cũng thành xa xỉ. Nhìn dáng mệ còm cõi trong chiếc áo cánh mỏng dính, tôi cảm giác như một màu xanh nào đó cũng lo toan chỗ phơi mình dưới nắng, nhan sắc nào rồi cũng phải cũ đi. Mỏng mảnh và âu lo, trong mưa dầm nắng cháy, cây tre nhỏ dướn mình ra bãi đất bạc màu khánh kiệt, đặng tìm ra một chỗ cắm rễ sâu.
Đi thêm mấy bước vào sâu trong ngõ, ngửi thấy mùi nhang khói đốt lên. Chạng vạng rồi, mưa vẫn rơi nặng hạt, tiếng lanh canh chén đũa vang lên những sinh khí ấm cúng của xóm nhỏ ven sông. Bởi biết rằng, dẫu trời có làm mưa thêm nhiều ngày nữa thì cuộc sống vẫn phải tiếp tục như thường.
*
Mưa rả rích mấy ngày nay. Trong tiếng rền của sấm, thấy hơi thở mùa thu đang đến rất gần. Ngày thứ 2 ở Cự Lại, tôi rảo bước quanh ngôi làng ven biển này đặng tìm kiếm một điều gì mà chưa thể gọi được tên. Gặp chợ, lòng tở mở một nỗi vui không giấu diếm vì bất kể khi đi đến một vùng đất nào, chợ là nơi mà tôi muốn ghé nhất. Vì chợ phản ánh rõ ràng diện mạo cuộc sống con người sở tại. Đến đó, không hẳn để bán mua trao đổi mà đơn giản chỉ để ngắm nhìn và ngửi mùi tanh của tôm cá vừa đánh bắt xong.
Chợ Cự Lại nằm ở vị trí trung tâm con đường kéo dài 2km thuộc 4 thôn, được xây dựng từ năm 1998 - 1 năm trước khi trận lụt lịch sử diễn ra ở Huế và một số tỉnh ven biển miền Trung năm 1999. Trận lụt năm ấy, chợ bị hư hại nghiêm trọng. Đến nay đã gần 20 năm, chợ là trung tâm trao đổi hàng hóa của cả xã Phú Hải với sự đa dạng các mặt hàng nhưng ấn tượng nhất vẫn là những con cá tươi còn giãy đành đạch.
Còn đang lượn quanh chưa biết mua gì thì gặp một o đang chọn mua hạt đậu xanh, thêm bước nữa thấy o mua cá trê vàng. Đây là loại cá nước ngọt, được thương lái buôn về từ chợ đầu mối. Tôi tò mò quá, không biết o sẽ nấu món gì với những nguyên liệu ấy, đánh liều tới gần hỏi, sau mấy giây nhìn tôi suy nghĩ, o nói: “Cô có ngại không, về nhà tui ăn cho biết”. Được lời như cởi tấm lòng, tôi theo o về nhà ở Cự Lại Nam không chút ngại ngần.
Đó là một ngôi nhà trong hẻm, nhìn ra đầm phá mênh mông. O là con gái Thành Nội, lấy chồng và sinh sống ở đây đã hơn 30 năm rồi. Xuống bếp, o đang làm cá, rồi lọc hạt đậu xanh. Xong hai bước ấy, thấy o mang ra một bọc củ sen già. O nói, phải có củ sen già mới ra món này, không thì quá vô vị. Thì ra món ăn độc đáo đó chính là cá trê vàng hầm củ sen già - món ăn mà tôi đã được nghe cô giáo tôi nói đến một lần. Đây là món ăn giúp giải nhiệt và rất bổ dưỡng chỉ có ở mùa thu xứ Huế, vì đây là mùa sen đã già củ. Một món ăn phổ biến từ thuở xưa nhưng ngày nay ít người biết, thì hôm nay, chính tại ngôi làng ven biển này tôi lại được một o con gái xuất thân từ Thành Nội nấu cho ăn. Diễm phúc ấy khiến tôi vừa ngỡ ngàng như một giấc mộng cỏn con, vừa cảm động vì tấm lòng cởi mở của con người tại nơi này.
Tạm biệt người phụ nữ trong hẻm ấy, tôi nhận ra cốt cách của một người phụ nữ Huế xưa qua lời nói dáng điệu và cách bài trí món ăn truyền thống, dẫu có ở đâu vẫn không hề bị mai một. Nhìn theo bóng áo màu mận chín ấy chìm dần vào cuối hẻm, tôi tự nhủ sẽ còn tìm lại nơi này vì lòng còn giữ lại một lời cảm tạ chưa nói ra.
Chiều đến chậm chạp và trễ nải. Nắng nhạt dần, trú ngụ màu vàng mỏng manh của mình trên từng đụn cát, mui thuyền ở rìa biển. Phía xa, hàng dương đang reo trên đồi, chốc chốc lại có những cành cây khô gãy kêu lắc rắc. Đang mùa mưa bão nên nhiều chiếc thuyền nằm im trên bờ, tranh thủ nghỉ ngơi để ra khơi mùa mới. Ngoài bờ giậu, những người phụ nữ vừa khâu lại tấm lưới vừa nói chuyện rôm rả. Thấy tôi giơ máy chụp hình, một người nói: “Chụp đi rồi gửi qua bên Mỹ hí” rồi nở nụ cười chất phác. Qua tìm hiểu mới biết, ngôi làng này có rất nhiều người đi Mỹ làm ăn sinh sống, trung bình cứ 3 nhà thì lại có 1 nhà có người đi Mỹ nên trong suy nghĩ của họ, Mỹ là một khái niệm rất quen thuộc.
Xế chiều, mặt trời bắt đầu võng xuống khu đất nghĩa trang Cự Lại. Phải thú thật rằng, hệ thống bia mộ và Từ đường ở đây được xây dựng rất khang trang, rộng rãi. Tuy không thể sánh với sự bề thế ở “thành phố lăng” An Bằng nhưng sự cầu kỳ, uy nghi của hệ thống tôn giáo - tín ngưỡng ở Cự Lại cũng đủ cho thấy nét đặc biệt trong tổng thể kiến trúc làng xã của một vùng đất ven chân sóng. Nhà cửa người dân có thể không cao sang nhưng lăng mộ, Từ đường lại rất tráng lệ - một phần do tinh thần đề cao tín ngưỡng của dân làng, phần khác do nguồn tiền hỗ trợ của các Việt kiều gửi về góp phần xây cất nơi yên nghỉ tươm tất cho dòng họ.
Rời mắt khỏi khu nghĩa trang, tôi nhìn sang khu đầm phá mênh mông trước mặt. Một hoàng hôn trong vắt, bình yên lạ lùng hiện ra. Đã 5 giờ chiều mà trên không vẫn có những tảng mây xanh ngắt, đổ bóng xuống mặt nước dưới lòng đầm. Một đàn trâu nối đuôi nhau tìm về nhà sau khi đã no bụng như nói hộ một chút dấu ấn nông nghiệp ở ngôi làng ven biển này. Khung cảnh miền quê yên lặng đến lạ, không có tiếng tàu thuyền, không có tiếng xe cộ chạy ngang. Chỉ có gió và nắng cuối ngày ở lại.
Tôi bỗng nhớ Antoine de Saint-Exupéry - tác giả của cuốn Hoàng tử bé đã bảo rằng: “Trong tất cả những khoảng thời gian của ngày, khoảnh khắc khó khăn nhất chính là lúc mặt trời lặn”. Nhưng chẳng hiểu sao tôi luôn thích khoảnh khắc đó nhất. Hoàng hôn và vẻ u huyền của ráng chiều tạo cảm giác cô đơn ngưng đọng vĩnh hằng nhất. Vì rực rỡ nào cũng qua nhanh, chỉ có tàn phai càng về cuối càng đẹp mãi.
Và trong ráng chiều làng chài hôm ấy, một hoàng hôn yên tĩnh ở lại, để nguyên vẹn là mình đón bình minh rạng sáng hôm sau.
N.H
(SHSDB27/12-2017)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.