Và nơi đây hoàng hôn yên tĩnh

09:06 12/02/2018

NGUYÊN HƯƠNG

Từ trung tâm thành phố, chạy thêm 25km về hướng Đông Nam sẽ gặp xã Phú Hải (thuộc huyện Phú Vang) gồm 4 ngôi làng tên Cự Lại: Cự Lại Đông, Cự Lại Bắc, Cự Lại Trung và Cự Lại Nam (dân làng thường gọi chung là Cự Lại). Những ngôi làng này nằm kề sát nhau, có chiều dài khoảng 2km, trải dọc ven biển và phá Tam Giang.

Làng Cự Lại nhìn từ đầm phá

Nghe người làng kể lại, Cự Lại có tên nôm là làng Trài, do ngài bổn Thổ Tiền Phan Quý Công và các vị Thủy tổ thuộc nhiều dòng họ khai hoang lập ấp từ cách đây hơn 400 năm. Dấu ấn các hiền nhân khai canh còn in rất rõ ở nơi này qua những ngôi Từ đường của các dòng họ và bia đá ghi khắc cả trăm năm. Đặc biệt, con cháu dòng họ Phan ở ngôi làng này chiếm số lượng nhân khẩu đáng kể, làm đủ các nghề từ trí thức đến lao động bình dân như làm mắm ruốc, làm nông nghiệp, đi biển, chạy chợ...

Trong sương mờ hiện ra, những chiếc lu vại trên khoảng sân rộng chừng 100 mét vuông của một gia đình ở thôn Cự Lại Trung mà tôi bất chợt nhìn thấy đã khiến tôi nghĩ ngay đến nghề làm mắm ruốc nổi tiếng ở xứ này. Mùi thơm của tôm cá bốc lên trong nắng mai, không câu nệ khoảng sân rộng hay hẹp mà chủ yếu là tấm lòng của người làm mắm. Qua nhiều dâu bể đổi thay, nghề làm mắm ruốc ở Cự Lại đã được thay bằng công nghệ mới cho năng suất và lợi nhuận cao hơn nhưng nhiều gia đình vẫn giữ nguyên cách làm thủ công truyền thống. Tôm, cá được giã tay, ủ muối và mang chưng cất cho đậm vị.

Lu mắm trong làng


Cùng với hoa giấy Thanh Tiên, tranh dân gian làng Sình, rượu gạo làng Chuồn thì mắm ruốc Cự Lại được xếp vào danh mục những nét văn hóa bản địa đặc trưng của huyện Phú Vang nói riêng và tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung. Mắm ruốc vừa chín tới, mùi thơm còn nguyên ở đáy lu sẽ được mệ già bới ra làm nước chấm cho món cá nục cuốn bánh tráng. Mệ bảo, dù chân yếu tay mềm rồi nhưng vẫn gắng làm mắm ruốc để khi nào đám con cháu ở Mỹ về thăm nhà còn có ăn vì “tụi hắn không chịu ăn mắm đi mua nhà khác mà phải do chính tay tui mần”.

Gió thổi về từ biển, mang theo dư vị của mặn mòi trùng khơi. Làng nhỏ, nối đuôi nhau chạy một mạch xuyên suốt từ Thuận An về phía đi ra cửa Tư Hiền. Những giậu thưa phơi đầy quần áo không một chỗ trống, chắc do bị để lại từ những ngày mưa vừa qua. Hoa giấy rơi ngập con hẻm nhỏ, tiếng đài radio xen lẫn trong tiếng dạ thưa của học trò chào người lớn trước giờ tới lớp.

Đợt trước, bão số 4 Sonca gây mưa lớn khiến con đường dẫn vào xóm nhỏ bị lụt đến nay vẫn còn nguyên vết bùn lầy đã khô cong. Người già nói bọn trẻ tan học buổi chiều phải xắn quần dắt xe lội bì bõm qua chỗ lụt để về nhà. Chúng cười đùa rả rích chứ không rầu rĩ như người lớn, vì thật ra cảm giác được lội nước mưa với đám bạn cũng vui lắm chứ. Con nít chứ có phải người lớn đâu mà lo lắng về hàng chợ hôm nay.

Thấy tôi rón rén đứng trước ngõ, mệ cố vẫy tay vào. Mệ đang ngồi bào rau môn để bán cho mấy hàng cơm hến. Mệ đã 82 tuổi, ở một mình không có con cái, mỗi khi trái gió trở trời cái lưng lại đau nhức nhối nên làm không được việc. Mệ bảo, bưa lắm cô ơi, tối ni mệ nhịn đói rồi. Tôi bảo, rứa mà bữa ni con tính đến ăn chực nhà mệ đây. Mệ cười khà khà, tội hỉ. Nói rồi mệ châm thuốc hút ngon lành.

Xóm mệ ở hầu hết là dân vạn đò, buôn thúng bán mẹt, cuộc sống còn nhiều cơ cực. Mấy hàng tạp hóa con con được dựng lên từ tre nứa và mấy tấm tôn, phải những ngày mưa bão là bị làm cho rời rạc. Lá tre rụng xuống đầy cửa, thi thoảng lại có con chuột chạy quanh kiếm chỗ thoát thân. Thế mà vui lắm, mệ bảo, xóm ni không có mấy hàng tạp hóa tạm bợ này là buồn lắm cô ơi, như ngày ni họ đóng cửa, nhà mô mà hết gói muối là mệt đó...

Chiều đến, cả xóm lao xao tiếng trẻ nhỏ vui đùa. Phụ nữ lúi húi trong bếp lo cơm nước củi lả, đàn ông tranh thủ chèo thuyền thả tay lưới mong bắt được đàn cá mới theo dòng nước lên. Người chồng vừa đi thuyền về, được một mớ cá ngon lắm. Cá đuối vừa bắt xong, vẫn còn giẫy đành đạch. Chị vợ nói với đứa con, tối ni nhà có món cá đuối nướng rồi.

Xóm nhỏ ấy có nhiều đối cực với vẻ mộng mơ trữ tình dễ bề tìm thấy, với những mảnh rời bé mọn, thiếu thốn được phơi ra. Thỉnh thoảng còn có cả những câu hát lạc nhịp của thợ thuyền những ngày rớt bão khều khào, không biết bấu víu nơi đâu để tối nay đàn con no bụng. Đôi mắt than van những nỗi lo mưu sinh, nắng mưa chi mà khắc nghiệt, đến nỗi tiếng thở dài cũng thành xa xỉ. Nhìn dáng mệ còm cõi trong chiếc áo cánh mỏng dính, tôi cảm giác như một màu xanh nào đó cũng lo toan chỗ phơi mình dưới nắng, nhan sắc nào rồi cũng phải cũ đi. Mỏng mảnh và âu lo, trong mưa dầm nắng cháy, cây tre nhỏ dướn mình ra bãi đất bạc màu khánh kiệt, đặng tìm ra một chỗ cắm rễ sâu.

Đi thêm mấy bước vào sâu trong ngõ, ngửi thấy mùi nhang khói đốt lên. Chạng vạng rồi, mưa vẫn rơi nặng hạt, tiếng lanh canh chén đũa vang lên những sinh khí ấm cúng của xóm nhỏ ven sông. Bởi biết rằng, dẫu trời có làm mưa thêm nhiều ngày nữa thì cuộc sống vẫn phải tiếp tục như thường.

*

Mưa rả rích mấy ngày nay. Trong tiếng rền của sấm, thấy hơi thở mùa thu đang đến rất gần. Ngày thứ 2 ở Cự Lại, tôi rảo bước quanh ngôi làng ven biển này đặng tìm kiếm một điều gì mà chưa thể gọi được tên. Gặp chợ, lòng tở mở một nỗi vui không giấu diếm vì bất kể khi đi đến một vùng đất nào, chợ là nơi mà tôi muốn ghé nhất. Vì chợ phản ánh rõ ràng diện mạo cuộc sống con người sở tại. Đến đó, không hẳn để bán mua trao đổi mà đơn giản chỉ để ngắm nhìn và ngửi mùi tanh của tôm cá vừa đánh bắt xong.

Chợ Cự Lại nằm ở vị trí trung tâm con đường kéo dài 2km thuộc 4 thôn, được xây dựng từ năm 1998 - 1 năm trước khi trận lụt lịch sử diễn ra ở Huế và một số tỉnh ven biển miền Trung năm 1999. Trận lụt năm ấy, chợ bị hư hại nghiêm trọng. Đến nay đã gần 20 năm, chợ là trung tâm trao đổi hàng hóa của cả xã Phú Hải với sự đa dạng các mặt hàng nhưng ấn tượng nhất vẫn là những con cá tươi còn giãy đành đạch.

Còn đang lượn quanh chưa biết mua gì thì gặp một o đang chọn mua hạt đậu xanh, thêm bước nữa thấy o mua cá trê vàng. Đây là loại cá nước ngọt, được thương lái buôn về từ chợ đầu mối. Tôi tò mò quá, không biết o sẽ nấu món gì với những nguyên liệu ấy, đánh liều tới gần hỏi, sau mấy giây nhìn tôi suy nghĩ, o nói: “Cô có ngại không, về nhà tui ăn cho biết”. Được lời như cởi tấm lòng, tôi theo o về nhà ở Cự Lại Nam không chút ngại ngần.

Đó là một ngôi nhà trong hẻm, nhìn ra đầm phá mênh mông. O là con gái Thành Nội, lấy chồng và sinh sống ở đây đã hơn 30 năm rồi. Xuống bếp, o đang làm cá, rồi lọc hạt đậu xanh. Xong hai bước ấy, thấy o mang ra một bọc củ sen già. O nói, phải có củ sen già mới ra món này, không thì quá vô vị. Thì ra món ăn độc đáo đó chính là cá trê vàng hầm củ sen già - món ăn mà tôi đã được nghe cô giáo tôi nói đến một lần. Đây là món ăn giúp giải nhiệt và rất bổ dưỡng chỉ có ở mùa thu xứ Huế, vì đây là mùa sen đã già củ. Một món ăn phổ biến từ thuở xưa nhưng ngày nay ít người biết, thì hôm nay, chính tại ngôi làng ven biển này tôi lại được một o con gái xuất thân từ Thành Nội nấu cho ăn. Diễm phúc ấy khiến tôi vừa ngỡ ngàng như một giấc mộng cỏn con, vừa cảm động vì tấm lòng cởi mở của con người tại nơi này.

Tạm biệt người phụ nữ trong hẻm ấy, tôi nhận ra cốt cách của một người phụ nữ Huế xưa qua lời nói dáng điệu và cách bài trí món ăn truyền thống, dẫu có ở đâu vẫn không hề bị mai một. Nhìn theo bóng áo màu mận chín ấy chìm dần vào cuối hẻm, tôi tự nhủ sẽ còn tìm lại nơi này vì lòng còn giữ lại một lời cảm tạ chưa nói ra.

Chiều đến chậm chạp và trễ nải. Nắng nhạt dần, trú ngụ màu vàng mỏng manh của mình trên từng đụn cát, mui thuyền ở rìa biển. Phía xa, hàng dương đang reo trên đồi, chốc chốc lại có những cành cây khô gãy kêu lắc rắc. Đang mùa mưa bão nên nhiều chiếc thuyền nằm im trên bờ, tranh thủ nghỉ ngơi để ra khơi mùa mới. Ngoài bờ giậu, những người phụ nữ vừa khâu lại tấm lưới vừa nói chuyện rôm rả. Thấy tôi giơ máy chụp hình, một người nói: “Chụp đi rồi gửi qua bên Mỹ hí” rồi nở nụ cười chất phác. Qua tìm hiểu mới biết, ngôi làng này có rất nhiều người đi Mỹ làm ăn sinh sống, trung bình cứ 3 nhà thì lại có 1 nhà có người đi Mỹ nên trong suy nghĩ của họ, Mỹ là một khái niệm rất quen thuộc.

Xế chiều, mặt trời bắt đầu võng xuống khu đất nghĩa trang Cự Lại. Phải thú thật rằng, hệ thống bia mộ và Từ đường ở đây được xây dựng rất khang trang, rộng rãi. Tuy không thể sánh với sự bề thế ở “thành phố lăng” An Bằng nhưng sự cầu kỳ, uy nghi của hệ thống tôn giáo - tín ngưỡng ở Cự Lại cũng đủ cho thấy nét đặc biệt trong tổng thể kiến trúc làng xã của một vùng đất ven chân sóng. Nhà cửa người dân có thể không cao sang nhưng lăng mộ, Từ đường lại rất tráng lệ - một phần do tinh thần đề cao tín ngưỡng của dân làng, phần khác do nguồn tiền hỗ trợ của các Việt kiều gửi về góp phần xây cất nơi yên nghỉ tươm tất cho dòng họ.

Rời mắt khỏi khu nghĩa trang, tôi nhìn sang khu đầm phá mênh mông trước mặt. Một hoàng hôn trong vắt, bình yên lạ lùng hiện ra. Đã 5 giờ chiều mà trên không vẫn có những tảng mây xanh ngắt, đổ bóng xuống mặt nước dưới lòng đầm. Một đàn trâu nối đuôi nhau tìm về nhà sau khi đã no bụng như nói hộ một chút dấu ấn nông nghiệp ở ngôi làng ven biển này. Khung cảnh miền quê yên lặng đến lạ, không có tiếng tàu thuyền, không có tiếng xe cộ chạy ngang. Chỉ có gió và nắng cuối ngày ở lại.

Tôi bỗng nhớ Antoine de Saint-Exupéry - tác giả của cuốn Hoàng tử bé đã bảo rằng: “Trong tất cả những khoảng thời gian của ngày, khoảnh khắc khó khăn nhất chính là lúc mặt trời lặn”. Nhưng chẳng hiểu sao tôi luôn thích khoảnh khắc đó nhất. Hoàng hôn và vẻ u huyền của ráng chiều tạo cảm giác cô đơn ngưng đọng vĩnh hằng nhất. Vì rực rỡ nào cũng qua nhanh, chỉ có tàn phai càng về cuối càng đẹp mãi.

Và trong ráng chiều làng chài hôm ấy, một hoàng hôn yên tĩnh ở lại, để nguyên vẹn là mình đón bình minh rạng sáng hôm sau.

N.H  
(SHSDB27/12-2017)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.

  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.