Nhà văn Marie Luise Kaschnitz - Ảnh: badische-zeitung.de
Năm 1933 cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tự sự “Tình yêu bắt đầu”. Sau khi chủ nghĩa phát xít tan rã cho in tập “Thơ” (1947) trong đó bao gồm những sáng tác của bà trong gần hai chục năm. Tên tuổi bắt đầu nổi tiếng từ khi cho ra mắt cuốn trường ca “Vũ khúc của những người chết” (1946). Trong số các tác phẩm khác nổi tiếng nhất có tiểu thuyết “Ngôi nhà thời thơ ấu” và tập truyện ngắn “Những chiếc bóng dài”. Với lối viết ngắn gọn, cách nhìn cuộc sống rất hiện thực, đôi khi đến lạnh lùng, các truyện ngắn của bà phơi bày cho ta thấy không phải chỉ cái bất công, nghèo đói, mà cả cái không khí khủng bố ghê rợn luôn luôn ám ảnh đe dọa những con người bình thường trung trực trong cái xã hội mà đồng tiền và bạo lực thống trị. Tuyết tan MARIE LUISE KASCHNITZ Căn nhà của họ ở trên tầng ba một ngôi nhà nhiều tầng quét vôi sáng. Mấy căn buồng sáng sủa, ấm cúng, sàn lát vải sơn màu xanh da trời có chấm trắng, những chiếc ghế sa lông bằng nhựa xốp mềm bọc đệm đỏ thẫm. Cái bếp tuy hơi cổ, nhưng mới sơn lại nên trông sạch sẽ tinh tươm, trong bếp có kê một cái bàn ăn và một cái ghế dài. Trời ấm dần, tuyết bắt đầu tan, lớp tuyết cứng trên mái nhà bắt đầu mềm ra, rơi từng tảng ngoài cửa sổ. Khi người chồng đi làm về, người vợ đang ở trong bếp, kim đồng hồ chỉ gần sáu giờ, trời đã xâm xẩm tối. Người vợ nghe thấy tiếng chồng dùng chìa khóa riêng mở cửa, bước vào, khóa nó lại, rẽ vào nhà vệ sinh, quay ra, mở cánh cửa sau lưng bà và nói: “Chào bà!”. Mãi lúc đó bà mới rút tay ra khỏi cái chậu nước xà phòng trong có những chiếc tất dài ngoằn ngoèo như những con lươn, vẩy vẩy bọt xà phòng bám ở tay, quay lại và gật đầu với chồng. - Ông khóa cửa chưa đấy? - bà hỏi. - Khóa rồi, - ông chồng đáp. - Có vặn chìa hai vòng không? Bà lại hỏi. - Có, - ông lại đáp. Đoạn bà tiến lại cửa sổ kéo tấm cửa xuống. - Đừng bật đèn, - bà nói, - vì cửa sổ có khe hở. Hay ông đi lấy mảnh các tông mà bịt nó lại. - Bà thì chỉ thần hồn nát thần tính - ông chồng nói. Ông đi ra và lát sau quay lại, tay cầm chiếc búa và mảnh bìa các tông. Một mặt của tờ bìa có hình ảnh da đen đeo cà vạt đỏ đang cười nhe hàm răng trắng nhởn. Người chồng đóng tấm bìa cho hình ảnh da đen nhìn vào trong bếp. Ông ta làm việc đó trong ánh sáng lù mù từ hành lang hắt vào, và khi đóng xong, người vợ ra tắt đèn hành lang, rồi quay vào, khóa cửa lại. Cái đèn ống treo phía trên bếp khẽ rung rung nhấp nháy mấy cái, rồi một ánh sáng bật lên chiếu sáng trưng căn bếp. Người chồng lại cái bồn nước rửa tay, rồi ngồi vào bàn. - Tôi thấy đói rồi đấy! - ông nói. - Được rồi - bà vợ đáp. Bà lôi trong tủ lạnh ra một cái đĩa gồm có jăm bông, xúc xích, dưa chuột muối, và một cái đĩa xà lát khoai tây. Bánh mì thì đã để sẵn trong cái lẵng mây đan rất đẹp, đặt trên cái bàn ăn có phủ tấm ni lông hoa thay cho khăn trải bàn: tấm khăn có in hình những chiếc thuyền con cắm cờ sặc sỡ trên nền xanh trông rất vui mắt. - Ông có mang báo về không? - bà vợ hỏi. - Có - người chồng đáp, rồi lại đi ra hành lang, một lúc sau quay lại, đặt tờ báo lên bàn. - Phải đóng cửa bếp lại - người vợ nói. Ánh sáng có thể qua cái cửa kính phòng ngoài lọt ra cầu thang, và ai cũng biết là chúng mình có nhà. Báo hôm nay có gì không? - bà hỏi. - Có một bài nói về phía sau của mặt trăng, - người chồng đáp. Sau khi đứng lên đóng cửa bếp, ông lại ngồi vào bàn và ăn món xà lát khoai tây với xúc xích. - Và cả một bài về tình hình Trung Quốc và An-giê-ri. - Tôi không hỏi những chuyện ấy, bà vợ nói. - Tôi muốn hỏi là cảnh sát đã có biện pháp gì chưa? - Rồi, người chồng nói - Họ đã lập một danh sách. - Danh với chả sách! - bà vợ cười nhạt nhại lại. - Ông có nhìn thấy cảnh sát ở ngoài phố không? - Không - người chồng đáp. - Thế ở cái tiệm “Con dê đỏ” đầu phố? - Cũng không thấy. Người vợ cũng ngồi vào bàn và bắt đầu ăn, nhưng bà ăn rất nhỏ nhẹ. Bà chỉ để tâm lắng nghe từng tiếng động nhỏ ngoài đường. - Tôi không hiểu bà - người chồng nói, - tôi không biết có người nào lại có ý định hãm hại chúng ta. Mà vì lý do gì cơ chứ? - Nhưng tôi thì tôi biết, - người vợ nói. - Theo tôi thì chẳng có ai, trừ nó- người chồng nói, mà nó thì đã chết rồi. - Tôi không tin lắm - người vợ nói. Bà đứng dậy, thu dọn bát đĩa đem đi rửa ngay, trong lúc rửa, bà cố làm thật nhẹ nhàng để không gây tiếng động. Người chồng châm thuốc hút, đeo kính vào và bắt đầu đọc báo, nhưng trông dáng điệu cũng biết ngay là ông ta cũng không tập trung vào tờ báo được. - Chúng ta chỉ mong điều hay cho nó - ông nói. - Điều ấy chưa có ý nghĩa gì hết! Bà vợ bảo. Bà lấy những chiếc tất trong chậu ra, rũ rũ cho hết nước, rồi phơi lên thành lò sưởi, lấy những cái kẹp nhựa xinh xắn kẹp chúng lại. - Ông có biết chúng nó thường làm chuyện đó như thế nào không? - bà hỏi chồng. - Tôi không biết và cũng không muốn biết - người chồng ngắt lời ngay - và tôi cũng cóc sợ gì cái thằng nhãi ranh xỉ mũi không sạch ấy. Thôi, tôi đi nghe bản tin cuối cùng đây. - Chúng chỉ bấm chuông khi nào biết chắc có người ở nhà - bà vợ vẫn tiếp tục - Nếu không có ai ra mở cửa - chúng sẽ phá cửa xông vào, tay cầm súng lục. - Thôi bà đừng nói nữa - người chồng bảo - Thằng Hen-mut chết rồi! Người vợ rút cái khăn treo trên mắc nhựa xuống và lau tay. - Dù sao tôi cũng phải kể cho ông biết - bà bắt đầu - cho đến hôm nay tôi vẫn im lặng, nhưng bây giờ thì phải kể. Ông còn nhớ cái hôm cảnh sát đến nhà tìm tôi chứ? Ông chồng đặt tờ báo xuống, hoảng hốt nhìn vợ: - Sao? - Họ dẫn tôi đến nhà xác - người vợ tiếp - Một người cảnh sát lột tấm khăn phủ trên xác chết ra, lật rất từ từ, bắt đầu từ chân. “Có phải giầy con bà không?” - Ông ta hỏi, tôi đáp, phải, đúng giầy của nó. “Cả bộ quần áo cũng là của con bà chứ?” - ông ta lại hỏi, tôi lại đáp, vâng, cả bộ quần áo. - Tôi hiểu - người chồng nói. - “Còn khuôn mặt, bà có nhận ra không?” Viên cảnh sát hỏi tôi câu cuối cùng, rồi lật hẳn tấm khăn ra, nhưng chỉ một giây thôi rồi lại che đi ngay, vì sợ tôi bị ngất hoặc hét lên. Mặt ư? Nhưng cái xác ấy làm gì còn mặt nữa! Vâng, tôi nói đúng là nó. - Tôi hiểu - người chồng nói. Người vợ lại gần bàn, ngồi sang phía sau đối diện với chồng, chống hai tay lên cằm. - Tôi không nhận ra nó, bà nói. - Nhưng có thể đúng là nó thật - người chồng phản đối. - Không, không phải nó. Và khi về nhà, tôi đã nói với ông rằng đúng là nó, và ông đã mừng. - Cả bà và tôi đều mừng - người chồng nói. - Vì thằng Hen-mut không phải là con chúng ta - bà vợ nói. - Vì nó vẫn là con người khác - ông chồng thêm. Ông cứ nhìn một lúc lâu vào người vợ, vào khuôn mặt tròn, có mớ tóc quăn viền xung quanh, trông hãy còn trẻ nhưng phút chốc đã biến thành khuôn mặt bà già. - Bà có vẻ mệt lắm rồi - ông nói, bà bị căng thẳng quá, bà nên đi nghỉ đi. - Vô ích, - bà vợ nói, - Từ lâu tôi với ông không ai ngủ được, mà chỉ cố nhắm mắt ra vẻ ngủ, để rồi sau đó lại khẽ mở mắt ra, và cứ nằm như thế cho đến sáng, rồi sáng ra nhìn nhau bằng những cặp mắt mất ngủ, có thế thôi… - Có lẽ thế, người chồng nói, - Không bao giờ nên nhận nuôi con người khác cả. Chúng ta đã sai lầm, nhưng bây giờ thì ổn rồi… - Tôi không nhận ra cái xác chết mà họ cho tôi xem - người vợ nói. Nhưng dù sao thằng Hen-mut, nếu không chết, chắc bây giờ cũng đang ở nước ngoài, ở Mỹ, Úc, hoặc một nơi nào rất xa.
Vào lúc đó từ trên mái nhà một tảng tuyết to rơi xuống đường nghe đến bộp một cái. - Ông còn nhớ cái đêm giáng sinh ấy không? Hôm ấy tuyết nhiều dễ sợ, bà hỏi chồng. - Ừ - người chồng đáp - Thằng Hen-mut năm đó vừa đầy bảy tuổi. Chúng ta đã mua cho nó đôi gậy trượt tuyết và bao nhiêu thứ đồ chơi khác. Nhưng toàn là những thứ nó không thích. Nó đổ tung tất cả đồ chơi ra nhà và có vẻ như một tìm cái gì mà không tìm thấy. - Cuối cùng nó cũng bớt cáu và bắt đầu lấy bộ đồ xây dựng ra chơi. Nó lắp một cái nhà không có cửa ra vào lẫn cửa sổ, rồi lại làm bức tường vây quanh nhà. - Mùa xuân năm đó nó bóp chết một con thỏ con - bà vợ nói. - Ta nói chuyện gì khác đi - người chồng đề nghị - bà đưa tôi cái chổi để tôi tra cán cho. - Làm bây giờ ầm lắm - người vợ nói - Ông có biết chúng nó tự xưng là gì không? - Không - người chồng đáp - tôi không biết và cũng không muốn biết. Tôi phải làm một việc gì, không có tôi đi ngủ đây! - Chúng tự gọi chúng là những “quan tòa” - người vợ nói. Thốt nhiên bà đờ người, lắng tai nghe. Có tiếng chân người bước lên cầu thang, dừng lại một lát, rồi lại bước tiếp, thong thả từng bậc, từng bậc, cho đến hết cầu thang. - Bà làm tôi phát điên lên mất - người chồng nói. - Lần đầu tiên nó đánh tôi là lúc nó lên chín. Ông còn nhớ chứ? - Nhớ - người chồng nói, - nó bị đuổi khỏi trường và bà đã mắng nó. Và thế là chúng ta đành gửi nó vào trường cải huấn! - Nhưng nghỉ hè nó vẫn về nhà - người vợ nói. - Ừ, nghỉ hè nó về nhà - người chồng nhắc lại - Một hôm chủ nhật tôi dẫn nó đến một cái hồ trong rừng chơi. Ở đó chúng tôi nhìn thấy một con kỳ nhông hoa. Trên đường về nó đặt tay vào tay tôi. - Và hôm sau thì nó chọc thủng mắt con ông thị trưởng. - Nó không biết đấy là con ông thị trưởng - người chồng nói. - Chuyện đâm rắc rối khủng khiếp. Suýt nữa thì ông bị mất việc. - Và khi kỳ nghỉ hè kết thúc tôi với bà đã mừng thế nào! - người chồng nói rồi đứng dậy, đi ra tủ lạnh lấy một chai bia và một cái cốc đặt lên bàn - Bà có uống không?- Ông hỏi. - Không, cám ơn - người vợ đáp - Nó không thương gì chúng ta cả. - Nói chung nó chẳng thương xót gì ai hết! - ông chồng nói - Nhưng một hôm nó đã phải đến nhờ chúng ta che chở. - Phải, đó là hôm nó trốn khỏi trưởng cải huấn - bà vợ nói - Và nó không biết trông cậy vào ai. - Ông hiệu trưởng gọi dây nói đến nhà ta - người chồng tiếp - Đó là một người vui tính và lịch sự. Nếu thằng Hen-mut có đến nhà ông bà thì xin ông bà đừng mở cửa cho nó, ông ta yêu cầu thế. Thằng bé không có một xu nào để ăn. Khi con chim non bị đói bao giờ nó cũng quay về tổ. - Ông ta nói thế à? - bà vợ hỏi. - Phải, - người chồng đáp - Sau đó ông ta hỏi nó có bạn bè gì trong phố không? - Nó làm gì có bạn bè nào - Người vợ nói. - Bấy giờ cũng đang vào lúc ấm trời - người chồng nói - Tuyết cũng lăn từ trên mái nhà xuống và rơi lộp độp từng cục xuống ban công. Cũng giống như hôm nay - người vợ nói. - Hệt như hôm nay - người chồng nói. - Hệt như hôm nay - người vợ nhắc lại - tôi với ông cũng che kín cửa sổ, cũng chỉ thì thầm với nhau không dám nói to, không dám mở đài, mở vô tuyến, sợ nó biết có người ở nhà. Thằng bé cũng leo lên cầu thang, rồi bấm chuông gõ cửa. Thằng Hen-mut lúc ấy không còn bé nữa - người chồng nói. Nó đã mười lăm tuổi. Và tôi với bà đã phải làm đúng theo lệnh của ông hiệu trưởng. - Lúc ấy tôi với ông sợ quá - người vợ nói. Người chồng rót thêm bia cho mình. Ngoài phố đã bớt hẳn tiếng ồn ào, chỉ còn nghe thấy tiếng gió từ phía núi thổi về, rít lên từng hồi. - Nó hiểu ra hết - người vợ nói - vì nó đã mười lăm tuổi. Nhưng nó chỉ đứng ngoài hành lang và khóc. - Tất cả những chuyện ấy đã qua rồi - người chồng nói. Ông cứ lấy ngón tay giữa dí dí phía trên tấm khăn bàn ni lông, tựa như muốn tô lại hình những con thuyền, nhưng không chạm vào chúng. - Ở đồn cảnh sát có một cô bé di-gan, người vợ nói - Đứa con của cô ta nằm ở đó, chết cứng, nó bị một chiếc ô tô cán chết. Cô ta cứ gào lên lăn lộn như một con thú. - Tiếng gào của máu! - người chồng nói, giọng mỉa mai, mặt nhăn lại vì đau đớn. - Một hồi nó cũng có một thằng bạn - người vợ nói - đó là thằng bé còm nhom và đen nhẻm. Chính cái thằng bé mà một hôm đã bị chúng lấy dây trói vào cái cọc, rồi chất cỏ khô dưới chân châm lửa đốt ngay giữa sân trường. Hôm ấy trời khô nóng nên cỏ bén rất mạnh. - Và đó lại là một bằng chứng nữa cho bà - người chồng nói. - Không - người vợ cãi - Thằng Hen-mut không tham gia vào chuyện đó. Hôm ấy nó không có mặt ở đấy. Thằng bé kia về sau vùng chạy được, nhưng cuối cùng cũng bị chết. Tất cả học sinh đã đi đưa đám nó và rắc đầy hoa lên mộ của nó. - Cả thằng Hen-mut cũng đi à? - người chồng hỏi. - Không, thằng Hen-mut không đi - người vợ đáp. - Nó là một thằng không có tình cảm - người chồng nói và quay quay cái cốc trong tay. - Nhưng cũng có thể là ngược lại - người vợ hỏi. - Phòng này sáng quá - người chồng đột nhiên bảo - Ông nhìn những cái bóng đèn ống, sau đó lấy tay che mắt, mấy ngón tay cứ day day lên chỗ mi mắt đã cụp xuống. - Cái ảnh của nó đâu nhỉ? - người chồng bỗng hỏi. - Tôi cất vào tủ rồi - người vợ đáp. - Cất bao giờ? - người chồng hỏi. - Lâu rồi, - người vợ đáp - Lâu là bao giờ? - người chồng lại hỏi. - Hôm qua - người vợ đáp. - Nghĩa là bà mới nhìn thấy nó hôm qua phải không? - người chồng hỏi. - Vâng - người vợ đáp vội, cảm thấy như trút được gánh nặng - nó đứng cạnh quán cà phê “Con dê đỏ” ở đầu phố. - Đứng một mình? - Không, với mấy đứa nữa. Chúng đứng một tốp với nhau, im lặng, tay đút túi quần. Sau đó hình như chúng tôi nghe thấy tiếng gì, cả tôi cũng nghe thấy - một hồi còi dài rúc lên lanh lảnh, thế là cả tụi biến mất, chỉ trong nháy mắt. - Nó có trông thấy bà không? - người chồng hỏi. - Không - người vợ đáp - khi tôi ở tầu điện bước xuống thì nó đứng quay lưng lại phía tôi. - Có thể không phải là nó - người chồng nói. - Tôi cũng không tin lắm - người vợ nói. Người chồng đứng dậy, vươn vai ngáp, hai lần đá mũi giầy phải chân ghế. - Cho nên đừng bao giờ nuôi con người khác. Không biết nó còn định âm mưu gì đây? Bà mở ngăn kéo bàn, bới bới một lúc, lấy ra cuộn chỉ đen và cái kim. - Ông cởi áo ngoài ra - bà bảo chồng - cái khuy trên sắp tuột rồi kia kìa! Ông chồng vừa cởi áo vừa nhìn vợ đang cố xâu kim. Trong bếp rất sáng và cái lỗ kim khá to, nhưng đôi tay bà vợ cứ run rẩy, nên sợi chỉ mãi không xỏ được vào lỗ kim. Ông đặt áo xuống bàn, còn bà vợ thì vẫn loay hoay xâu kim. - Ông đọc cho tôi nghe cái gì đi- bắt gặp ánh mắt của ông đang nhìn mình chằm chằm, bà bảo. - Đọc báo ấy à? - ông hỏi. Không, đọc quyển sách gì đi - bà nói. Ông chồng đi vào phòng ăn và lúc sau quay lại, tay cầm quyển sách. Vào đúng lúc ông đặt quyển sách xuống bàn, thò tay vào túi tìm kính, thì ông và vợ bỗng nghe mấy tiếng meo meo ngoài cửa sổ. - Cái con lêu lổng ấy về đấy! - ông nói, rồi đứng dậy, định ra kéo cánh cửa sổ lên, nhưng tấm cửa đã bị các tông bịt kín nên không thể nhấc lên được. - Ông tháo cái bìa ra! - người vợ bảo. Người chồng đi lấy kìm nhổ đinh, nâng tấm cửa lên, con mèo nhẩy phốc một cái từ bậu cửa vào trong bếp, chỉ thoáng nhìn thấy cái bóng đen của nó trong bếp. - Có phải bịt lại nữa không? - người chồng hỏi. Người vợ lắc đầu. - Thôi, ông đọc cho tôi nghe đi! - người vợ nói. Người chồng cầm tấm bìa các tông có hình anh da đen dựng sát vào tủ lạnh. Từ dưới đất, anh da đen ngước lên nhìn ông ta cười có vẻ chế nhạo. Người chồng lại gần bàn, lấy trong tủ ra cái kính. - Mixê! - ông gọi con mèo, và con mèo nhảy ngay lên lòng ông, ông vuốt vuốt lưng nó, khuôn mặt ông thoáng vui lên đôi chút. - Đọc đi ông - người vợ nói. - Từ đầu à? - người chồng hỏi. - Không, ông cứ mở đại một chỗ nào ở giữa ấy, bà vợ đáp. - Đọc thế để làm gì? - người chồng ngạc nhiên. - Để làm gì ấy à? - người vợ nói - Tôi muốn biết xem chúng ta có lỗi không. Người chồng đeo kính, giở giở một lúc rất nhiều trang. Đó là quyển sách ông ta cũng vớ hú họa trong bóng tối. Sách của họ không có bao nhiêu. - “Còn tôi, - ông ta lấy giọng đọc chậm rãi, nhấn từng chữ, - gần như kinh hãi nhìn nó, nhìn những nét cân đối nhưng mạnh mẽ của nó, nhìn mớ tóc đen rủ thấp xuống trán, nhìn đôi mắt to ánh lên tia lửa lạnh lùng, và mãi nhiều năm sau khuôn mặt nó vẫn hiện lên trước mắt tôi như bức chân dung trong tranh vẽ của người họa sĩ”. Ông đọc thêm một đoạn nữa rồi để sách xuống bàn, nói: Đọc thế chúng ta vẫn chưa biết được gì. - Phải - người vợ tán thành và tay trái cầm kim lại giơ ra trước ánh đèn, tay phải cầm chỉ vẫn không sao xuyên được vào lỗ kim. - Tại sao bà cứ nhất định muốn biết? - người chồng hỏi - Tất cả chúng ta, bất cứ ai cũng đều có lỗi và không có lỗi, việc gì phải nghĩ đến chuyện ấy? - Nếu chúng ta có lỗi, người vợ nói - thì hãy nâng tấm cửa sổ kia lên, để từ xa mọi người biết là chúng ta có nhà. Và chúng ta sẽ bật hết đèn trong đèn ngoài và mở toang cửa ra cho ai muốn vào thì vào. Người chồng bỗng rùng mình, con mèo tụt khỏi lòng ông chạy biến vào góc nhà, nơi có cái dĩa sữa đặt cạnh cái sọt rác. Người vợ bỏ kim không xâu nữa, gục đầu xuống bàn, trên tấm áo khoác của chồng. Và mọi vật xung quanh bỗng im ắng đến nỗi cả hai người nghe rõ tiếng mèo húp sữa xoàm xoạp trong góc nhà. - Bà vẫn nhất định muốn như thế à?- người chồng hỏi. - Vâng, - người vợ đáp. - Nhưng bà không tin chắc là cái thằng đứng ở cạnh quán “Con dê đỏ” ở đầu phố ấy là nó kia mà, - người chồng lại phản đối. Nhưng ông vẫn đứng dậy, ra kéo tấm cửa sổ lên, và ông chợt nhận ra cửa các nhà đều đóng kín mít, và ánh đèn nê ông trong căn bếp của nhà ông cứ sáng rực lên như ngọn hải đăng trong đêm tối. - Mà cũng hoàn toàn có thể là - ông nói tiếp - thằng Hen-mut đã bị chúng giết chết trong cuộc đánh nhau ấy, và mặt nó bị chúng đâm nát. - Phải, rất có thể - người vợ nói. - Nếu đúng thế thì sao? - người chồng hỏi. - Thì vẫn thế thôi! - người đàn bà đáp. Người chồng đi ra ngoài, bật đèn hành lang lên và cứ để ngỏ cửa. Khi ông quay vào thì bà vợ đang ngồi úp mặt vào cái áo vải cứng bỗng ngẩng lên nhìn ông mỉm cười, trên má bà hằn lên hình cây thông nhỏ. - Bây giờ thì bất cứ ai muốn vào nhà ta cũng được - người chồng nói có vẻ ân hận. - Phải, - bà đồng tình và nụ cười lại càng dịu dàng hơn. - Bây giờ - người chồng nói - thì chẳng phải mất công phá cửa nữa. Bất cứ lúc nào bọn chúng cũng có thể ập vào nhà ta với khẩu súng trong tay. - Phải, - người vợ nói. - Thế bây giờ chúng ta làm gì? - người chồng hỏi. - Đợi - người vợ đáp. Bà kéo chồng ngồi xuống cạnh mình, ông ngồi xuống cạnh bà, khoác áo vào, và con mèo lại nhảy lên lòng ông. - Bây giờ mình có thể mở đài được - bà nói. Người chồng giơ tay với cái đài - nó đặt trên nóc tủ đứng - ẩn vào một cái nút, và cái đèn báo màu xanh chiếu sáng tên các đài. Một điệu nhạc rất lạ quái gở, và nói chung không giống âm nhạc chút nào, vang lên. Vào mọi tối thì ông đã xoay ngay cái núm để chuyển sang đài khác, nhưng hôm nay ông cứ để nguyên, ngồi im không nhúc nhích. Người vợ cũng ngồi im không nhúc nhích, ngả đầu vào vai chồng, mắt nhắm lại. Ông cũng nhắm mắt - ánh sáng quá chói làm ông mệt mỏi. Thật là điên rồ, ông nghĩ, ngồi ở đây, như trên ngọn hải đăng, chờ bọn sát nhân đến, trong khi kẻ đó rất có thể không phải là thằng Hen-mut, rất có thể là thằng Hen-mut đã chết rồi. Ông thấy vợ đã bắt đầu thiu thiu, và ông tự nhủ, chờ khi nào bà ta thiếp hẳn đi, ông sẽ đứng lên ra kéo cửa sổ xuống, khóa cửa lại. Nhưng đã lâu lắm, bao nhiêu năm nay, vợ ông không ngả đầu vào vai ông mà thiếp đi như thế này, nét mặt bà cùng toàn bộ con người bà, cũng giống hệt như hồi nào, chỉ khác là có vài nếp nhăn nhỏ nơi đuôi mắt, nhưng ông không trông thấy những nếp nhăn cùng những sợi tóc bạc trên đầu bà, và bởi tất cả giống hệt như ngày nào, nên ông không muốn hẩy đầu bà ra, hơn nữa, nếu bà thức dậy, mọi chuyện lại có thể tái diễn lại từ đầu. Lại từ đầu, ông nghĩ, vì đúng là ngay từ đầu tôi với bà đã mong có đứa con, tôi lúc nào cũng chỉ ao ước có đứa con, nhưng mãi chúng mình vẫn không có con, tôi ao ước có một đứa như cái thằng tóc xoăn, ngồi hàng ghế thứ ba kia kìa, bà ạ, mà hình như có ai đang bước lên cầu thang hay sao ấy nhỉ? Hay là nó? Không được mở cửa, ông hiệu trưởng đã dặn thế, có nghĩa là phải thật im lặng, im lặng, phải nín thở. Khẽ chứ, khẽ chứ, chúng mình đã không yêu nó, và cái đầu tóc xoăn kia đã biến thành con thú dữ, xin mời các vị cứ vào tự nhiên, cửa mở đấy mà, các vị cứ bắn đi, vợ tôi chỉ muốn vậy thôi, bà ấy không đau đâu! - Không đau đâu! - trong lúc nửa tỉnh nửa mê, ông buột miệng thốt to câu đó, và bà vợ mở mắt ra, mỉm cười, rồi cả hai lại thiếp đi và không nhận thấy con mèo đã trườn khỏi lòng họ và nhảy vọt qua cái cửa sổ để ngỏ, tuyết rơi từ trên mái nhà xuống, gió ấm thổi vào trong phòng, và trời đã bắt đầu sáng. Ngồi nép vào nhau, họ ngủ say sưa và ngon lành, và chẳng có ai đến giết họ cả, và nói chung cả đêm hôm đó cũng không có ai vào nhà họ. Thái Hà dịch (Trong tập “Truyện ngắn của các nhà văn Tây Đức” - Nxb “Tiến bộ” Matxcơva, 1979). (9/10-84) |
MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.
PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.
DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.
MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.
HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.
GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.
VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.
NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.
S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.
JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.
KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.
ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.
KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.
LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.
YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.
KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.
KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.