Tuyết tan

09:30 04/01/2011
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.

Nhà văn Marie Luise Kaschnitz - Ảnh: badische-zeitung.de

Năm 1933 cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tự sự “Tình yêu bắt đầu”. Sau khi chủ nghĩa phát xít tan rã cho in tập “Thơ” (1947) trong đó bao gồm những sáng tác của bà trong gần hai chục năm. Tên tuổi bắt đầu nổi tiếng từ khi cho ra mắt cuốn trường ca “Vũ khúc của những người chết” (1946). Trong số các tác phẩm khác nổi tiếng nhất có tiểu thuyết “Ngôi nhà thời thơ ấu” và tập truyện ngắn “Những chiếc bóng dài”.
Với lối viết ngắn gọn, cách nhìn cuộc sống rất hiện thực, đôi khi đến lạnh lùng, các truyện ngắn của bà phơi bày cho ta thấy không phải chỉ cái bất công, nghèo đói, mà cả cái không khí khủng bố ghê rợn luôn luôn ám ảnh đe dọa những con người bình thường trung trực trong cái xã hội mà đồng tiền và bạo lực thống trị.



Tuyết tan


MARIE LUISE KASCHNITZ


Căn nhà của họ ở trên tầng ba một ngôi nhà nhiều tầng quét vôi sáng. Mấy căn buồng sáng sủa, ấm cúng, sàn lát vải sơn màu xanh da trời có chấm trắng, những chiếc ghế sa lông bằng nhựa xốp mềm bọc đệm đỏ thẫm. Cái bếp tuy hơi cổ, nhưng mới sơn lại nên trông sạch sẽ tinh tươm, trong bếp có kê một cái bàn ăn và một cái ghế dài.

Trời ấm dần, tuyết bắt đầu tan, lớp tuyết cứng trên mái nhà bắt đầu mềm ra, rơi từng tảng ngoài cửa sổ.

Khi người chồng đi làm về, người vợ đang ở trong bếp, kim đồng hồ chỉ gần sáu giờ, trời đã xâm xẩm tối. Người vợ nghe thấy tiếng chồng dùng chìa khóa riêng mở cửa, bước vào, khóa nó lại, rẽ vào nhà vệ sinh, quay ra, mở cánh cửa sau lưng bà và nói: “Chào bà!”. Mãi lúc đó bà mới rút tay ra khỏi cái chậu nước xà phòng trong có những chiếc tất dài ngoằn ngoèo như những con lươn, vẩy vẩy bọt xà phòng bám ở tay, quay lại và gật đầu với chồng.

- Ông khóa cửa chưa đấy? - bà hỏi.

- Khóa rồi, - ông chồng đáp.

- Có vặn chìa hai vòng không? Bà lại hỏi.

- Có, - ông lại đáp.

Đoạn bà tiến lại cửa sổ kéo tấm cửa xuống.

- Đừng bật đèn, - bà nói, - vì cửa sổ có khe hở. Hay ông đi lấy mảnh các tông mà bịt nó lại.

- Bà thì chỉ thần hồn nát thần tính - ông chồng nói.

Ông đi ra và lát sau quay lại, tay cầm chiếc búa và mảnh bìa các tông. Một mặt của tờ bìa có hình ảnh da đen đeo cà vạt đỏ đang cười nhe hàm răng trắng nhởn. Người chồng đóng tấm bìa cho hình ảnh da đen nhìn vào trong bếp. Ông ta làm việc đó trong ánh sáng lù mù từ hành lang hắt vào, và khi đóng xong, người vợ ra tắt đèn hành lang, rồi quay vào, khóa cửa lại. Cái đèn ống treo phía trên bếp khẽ rung rung nhấp nháy mấy cái, rồi một ánh sáng bật lên chiếu sáng trưng căn bếp. Người chồng lại cái bồn nước rửa tay, rồi ngồi vào bàn.

- Tôi thấy đói rồi đấy! - ông nói.

- Được rồi - bà vợ đáp.

Bà lôi trong tủ lạnh ra một cái đĩa gồm có jăm bông, xúc xích, dưa chuột muối, và một cái đĩa xà lát khoai tây. Bánh mì thì đã để sẵn trong cái lẵng mây đan rất đẹp, đặt trên cái bàn ăn có phủ tấm ni lông hoa thay cho khăn trải bàn: tấm khăn có in hình những chiếc thuyền con cắm cờ sặc sỡ trên nền xanh trông rất vui mắt.

- Ông có mang báo về không? - bà vợ hỏi.

- Có - người chồng đáp, rồi lại đi ra hành lang, một lúc sau quay lại, đặt tờ báo lên bàn.

- Phải đóng cửa bếp lại - người vợ nói. Ánh sáng có thể qua cái cửa kính phòng ngoài lọt ra cầu thang, và ai cũng biết là chúng mình có nhà. Báo hôm nay có gì không? - bà hỏi.

- Có một bài nói về phía sau của mặt trăng, - người chồng đáp. Sau khi đứng lên đóng cửa bếp, ông lại ngồi vào bàn và ăn món xà lát khoai tây với xúc xích. - Và cả một bài về tình hình Trung Quốc và An-giê-ri.

- Tôi không hỏi những chuyện ấy, bà vợ nói.

- Tôi muốn hỏi là cảnh sát đã có biện pháp gì chưa?

- Rồi, người chồng nói - Họ đã lập một danh sách.

- Danh với chả sách! - bà vợ cười nhạt nhại lại.

- Ông có nhìn thấy cảnh sát ở ngoài phố không?

- Không - người chồng đáp.

- Thế ở cái tiệm “Con dê đỏ” đầu phố?

- Cũng không thấy.

Người vợ cũng ngồi vào bàn và bắt đầu ăn, nhưng bà ăn rất nhỏ nhẹ. Bà chỉ để tâm lắng nghe từng tiếng động nhỏ ngoài đường.

- Tôi không hiểu bà - người chồng nói, - tôi không biết có người nào lại có ý định hãm hại chúng ta. Mà vì lý do gì cơ chứ?

- Nhưng tôi thì tôi biết, - người vợ nói.

- Theo tôi thì chẳng có ai, trừ nó- người chồng nói, mà nó thì đã chết rồi.

- Tôi không tin lắm - người vợ nói.

Bà đứng dậy, thu dọn bát đĩa đem đi rửa ngay, trong lúc rửa, bà cố làm thật nhẹ nhàng để không gây tiếng động. Người chồng châm thuốc hút, đeo kính vào và bắt đầu đọc báo, nhưng trông dáng điệu cũng biết ngay là ông ta cũng không tập trung vào tờ báo được.

- Chúng ta chỉ mong điều hay cho nó - ông nói.

- Điều ấy chưa có ý nghĩa gì hết! Bà vợ bảo.

Bà lấy những chiếc tất trong chậu ra, rũ rũ cho hết nước, rồi phơi lên thành lò sưởi, lấy những cái kẹp nhựa xinh xắn kẹp chúng lại.

- Ông có biết chúng nó thường làm chuyện đó như thế nào không? - bà hỏi chồng.

- Tôi không biết và cũng không muốn biết - người chồng ngắt lời ngay - và tôi cũng cóc sợ gì cái thằng nhãi ranh xỉ mũi không sạch ấy. Thôi, tôi đi nghe bản tin cuối cùng đây.

- Chúng chỉ bấm chuông khi nào biết chắc có người ở nhà - bà vợ vẫn tiếp tục - Nếu không có ai ra mở cửa - chúng sẽ phá cửa xông vào, tay cầm súng lục.

- Thôi bà đừng nói nữa - người chồng bảo - Thằng Hen-mut chết rồi!

Người vợ rút cái khăn treo trên mắc nhựa xuống và lau tay.

- Dù sao tôi cũng phải kể cho ông biết - bà bắt đầu - cho đến hôm nay tôi vẫn im lặng, nhưng bây giờ thì phải kể. Ông còn nhớ cái hôm cảnh sát đến nhà tìm tôi chứ?

Ông chồng đặt tờ báo xuống, hoảng hốt nhìn vợ:

- Sao?

- Họ dẫn tôi đến nhà xác - người vợ tiếp - Một người cảnh sát lột tấm khăn phủ trên xác chết ra, lật rất từ từ, bắt đầu từ chân.

“Có phải giầy con bà không?” - Ông ta hỏi, tôi đáp, phải, đúng giầy của nó. “Cả bộ quần áo cũng là của con bà chứ?” - ông ta lại hỏi, tôi lại đáp, vâng, cả bộ quần áo.

- Tôi hiểu - người chồng nói.

- “Còn khuôn mặt, bà có nhận ra không?” Viên cảnh sát hỏi tôi câu cuối cùng, rồi lật hẳn tấm khăn ra, nhưng chỉ một giây thôi rồi lại che đi ngay, vì sợ tôi bị ngất hoặc hét lên. Mặt ư? Nhưng cái xác ấy làm gì còn mặt nữa! Vâng, tôi nói đúng là nó.

- Tôi hiểu - người chồng nói.

Người vợ lại gần bàn, ngồi sang phía sau đối diện với chồng, chống hai tay lên cằm.

- Tôi không nhận ra nó, bà nói.

- Nhưng có thể đúng là nó thật - người chồng phản đối.

- Không, không phải nó. Và khi về nhà, tôi đã nói với ông rằng đúng là nó, và ông đã mừng.

- Cả bà và tôi đều mừng - người chồng nói.

- Vì thằng Hen-mut không phải là con chúng ta - bà vợ nói.

- Vì nó vẫn là con người khác - ông chồng thêm.

Ông cứ nhìn một lúc lâu vào người vợ, vào khuôn mặt tròn, có mớ tóc quăn viền xung quanh, trông hãy còn trẻ nhưng phút chốc đã biến thành khuôn mặt bà già.

- Bà có vẻ mệt lắm rồi - ông nói, bà bị căng thẳng quá, bà nên đi nghỉ đi.

- Vô ích, - bà vợ nói, - Từ lâu tôi với ông không ai ngủ được, mà chỉ cố nhắm mắt ra vẻ ngủ, để rồi sau đó lại khẽ mở mắt ra, và cứ nằm như thế cho đến sáng, rồi sáng ra nhìn nhau bằng những cặp mắt mất ngủ, có thế thôi…

- Có lẽ thế, người chồng nói, - Không bao giờ nên nhận nuôi con người khác cả. Chúng ta đã sai lầm, nhưng bây giờ thì ổn rồi…

- Tôi không nhận ra cái xác chết mà họ cho tôi xem - người vợ nói.

Nhưng dù sao thằng Hen-mut, nếu không chết, chắc bây giờ cũng đang ở nước ngoài, ở Mỹ, Úc, hoặc một nơi nào rất xa.

Minh họa: BỬU CHỈ


Vào lúc đó từ trên mái nhà một tảng tuyết to rơi xuống đường nghe đến bộp một cái.

- Ông còn nhớ cái đêm giáng sinh ấy không? Hôm ấy tuyết nhiều dễ sợ, bà hỏi chồng.

- Ừ - người chồng đáp - Thằng Hen-mut năm đó vừa đầy bảy tuổi. Chúng ta đã mua cho nó đôi gậy trượt tuyết và bao nhiêu thứ đồ chơi khác.

Nhưng toàn là những thứ nó không thích. Nó đổ tung tất cả đồ chơi ra nhà và có vẻ như một tìm cái gì mà không tìm thấy.

- Cuối cùng nó cũng bớt cáu và bắt đầu lấy bộ đồ xây dựng ra chơi. Nó lắp một cái nhà không có cửa ra vào lẫn cửa sổ, rồi lại làm bức tường vây quanh nhà.

- Mùa xuân năm đó nó bóp chết một con thỏ con - bà vợ nói.

- Ta nói chuyện gì khác đi - người chồng đề nghị - bà đưa tôi cái chổi để tôi tra cán cho.

- Làm bây giờ ầm lắm - người vợ nói - Ông có biết chúng nó tự xưng là gì không?

- Không - người chồng đáp - tôi không biết và cũng không muốn biết. Tôi phải làm một việc gì, không có tôi đi ngủ đây!

- Chúng tự gọi chúng là những “quan tòa” - người vợ nói.

Thốt nhiên bà đờ người, lắng tai nghe. Có tiếng chân người bước lên cầu thang, dừng lại một lát, rồi lại bước tiếp, thong thả từng bậc, từng bậc, cho đến hết cầu thang.

- Bà làm tôi phát điên lên mất - người chồng nói.

- Lần đầu tiên nó đánh tôi là lúc nó lên chín. Ông còn nhớ chứ?

- Nhớ - người chồng nói, - nó bị đuổi khỏi trường và bà đã mắng nó. Và thế là chúng ta đành gửi nó vào trường cải huấn!

- Nhưng nghỉ hè nó vẫn về nhà - người vợ nói.

- Ừ, nghỉ hè nó về nhà - người chồng nhắc lại - Một hôm chủ nhật tôi dẫn nó đến một cái hồ trong rừng chơi. Ở đó chúng tôi nhìn thấy một con kỳ nhông hoa. Trên đường về nó đặt tay vào tay tôi.

- Và hôm sau thì nó chọc thủng mắt con ông thị trưởng.

- Nó không biết đấy là con ông thị trưởng - người chồng nói.

- Chuyện đâm rắc rối khủng khiếp. Suýt nữa thì ông bị mất việc.

- Và khi kỳ nghỉ hè kết thúc tôi với bà đã mừng thế nào! - người chồng nói rồi đứng dậy, đi ra tủ lạnh lấy một chai bia và một cái cốc đặt lên bàn - Bà có uống không?- Ông hỏi.

- Không, cám ơn - người vợ đáp - Nó không thương gì chúng ta cả.

- Nói chung nó chẳng thương xót gì ai hết! - ông chồng nói - Nhưng một hôm nó đã phải đến nhờ chúng ta che chở.

- Phải, đó là hôm nó trốn khỏi trưởng cải huấn - bà vợ nói - Và nó không biết trông cậy vào ai.

- Ông hiệu trưởng gọi dây nói đến nhà ta - người chồng tiếp - Đó là một người vui tính và lịch sự. Nếu thằng Hen-mut có đến nhà ông bà thì xin ông bà đừng mở cửa cho nó, ông ta yêu cầu thế. Thằng bé không có một xu nào để ăn. Khi con chim non bị đói bao giờ nó cũng quay về tổ.

- Ông ta nói thế à? - bà vợ hỏi.

- Phải, - người chồng đáp - Sau đó ông ta hỏi nó có bạn bè gì trong phố không?

- Nó làm gì có bạn bè nào - Người vợ nói.

- Bấy giờ cũng đang vào lúc ấm trời - người chồng nói - Tuyết cũng lăn từ trên mái nhà xuống và rơi lộp độp từng cục xuống ban công.

Cũng giống như hôm nay - người vợ nói.

- Hệt như hôm nay - người chồng nói.

- Hệt như hôm nay - người vợ nhắc lại - tôi với ông cũng che kín cửa sổ, cũng chỉ thì thầm với nhau không dám nói to, không dám mở đài, mở vô tuyến, sợ nó biết có người ở nhà. Thằng bé cũng leo lên cầu thang, rồi bấm chuông gõ cửa.

Thằng Hen-mut lúc ấy không còn bé nữa - người chồng nói. Nó đã mười lăm tuổi. Và tôi với bà đã phải làm đúng theo lệnh của ông hiệu trưởng.

- Lúc ấy tôi với ông sợ quá - người vợ nói.

Người chồng rót thêm bia cho mình. Ngoài phố đã bớt hẳn tiếng ồn ào, chỉ còn nghe thấy tiếng gió từ phía núi thổi về, rít lên từng hồi.

- Nó hiểu ra hết - người vợ nói - vì nó đã mười lăm tuổi. Nhưng nó chỉ đứng ngoài hành lang và khóc.

- Tất cả những chuyện ấy đã qua rồi - người chồng nói. Ông cứ lấy ngón tay giữa dí dí phía trên tấm khăn bàn ni lông, tựa như muốn tô lại hình những con thuyền, nhưng không chạm vào chúng.

- Ở đồn cảnh sát có một cô bé di-gan, người vợ nói - Đứa con của cô ta nằm ở đó, chết cứng, nó bị một chiếc ô tô cán chết. Cô ta cứ gào lên lăn lộn như một con thú.

- Tiếng gào của máu! - người chồng nói, giọng mỉa mai, mặt nhăn lại vì đau đớn.

- Một hồi nó cũng có một thằng bạn - người vợ nói - đó là thằng bé còm nhom và đen nhẻm. Chính cái thằng bé mà một hôm đã bị chúng lấy dây trói vào cái cọc, rồi chất cỏ khô dưới chân châm lửa đốt ngay giữa sân trường. Hôm ấy trời khô nóng nên cỏ bén rất mạnh.

- Và đó lại là một bằng chứng nữa cho bà - người chồng nói.

- Không - người vợ cãi - Thằng Hen-mut không tham gia vào chuyện đó. Hôm ấy nó không có mặt ở đấy. Thằng bé kia về sau vùng chạy được, nhưng cuối cùng cũng bị chết. Tất cả học sinh đã đi đưa đám nó và rắc đầy hoa lên mộ của nó.

- Cả thằng Hen-mut cũng đi à? - người chồng hỏi.

- Không, thằng Hen-mut không đi - người vợ đáp.

- Nó là một thằng không có tình cảm - người chồng nói và quay quay cái cốc trong tay.

- Nhưng cũng có thể là ngược lại - người vợ hỏi.

- Phòng này sáng quá - người chồng đột nhiên bảo - Ông nhìn những cái bóng đèn ống, sau đó lấy tay che mắt, mấy ngón tay cứ day day lên chỗ mi mắt đã cụp xuống.

- Cái ảnh của nó đâu nhỉ? - người chồng bỗng hỏi.

- Tôi cất vào tủ rồi - người vợ đáp.

- Cất bao giờ? - người chồng hỏi.

- Lâu rồi, - người vợ đáp

- Lâu là bao giờ? - người chồng lại hỏi.

- Hôm qua - người vợ đáp.

- Nghĩa là bà mới nhìn thấy nó hôm qua phải không? - người chồng hỏi.

- Vâng - người vợ đáp vội, cảm thấy như trút được gánh nặng - nó đứng cạnh quán cà phê “Con dê đỏ” ở đầu phố.

- Đứng một mình?

- Không, với mấy đứa nữa. Chúng đứng một tốp với nhau, im lặng, tay đút túi quần. Sau đó hình như chúng tôi nghe thấy tiếng gì, cả tôi cũng nghe thấy - một hồi còi dài rúc lên lanh lảnh, thế là cả tụi biến mất, chỉ trong nháy mắt.

- Nó có trông thấy bà không? - người chồng hỏi.

- Không - người vợ đáp - khi tôi ở tầu điện bước xuống thì nó đứng quay lưng lại phía tôi.

- Có thể không phải là nó - người chồng nói.

- Tôi cũng không tin lắm - người vợ nói.

Người chồng đứng dậy, vươn vai ngáp, hai lần đá mũi giầy phải chân ghế.

- Cho nên đừng bao giờ nuôi con người khác. Không biết nó còn định âm mưu gì đây?

Bà mở ngăn kéo bàn, bới bới một lúc, lấy ra cuộn chỉ đen và cái kim.

- Ông cởi áo ngoài ra - bà bảo chồng - cái khuy trên sắp tuột rồi kia kìa!

Ông chồng vừa cởi áo vừa nhìn vợ đang cố xâu kim. Trong bếp rất sáng và cái lỗ kim khá to, nhưng đôi tay bà vợ cứ run rẩy, nên sợi chỉ mãi không xỏ được vào lỗ kim. Ông đặt áo xuống bàn, còn bà vợ thì vẫn loay hoay xâu kim.

- Ông đọc cho tôi nghe cái gì đi- bắt gặp ánh mắt của ông đang nhìn mình chằm chằm, bà bảo.

- Đọc báo ấy à? - ông hỏi.

Không, đọc quyển sách gì đi - bà nói.

Ông chồng đi vào phòng ăn và lúc sau quay lại, tay cầm quyển sách. Vào đúng lúc ông đặt quyển sách xuống bàn, thò tay vào túi tìm kính, thì ông và vợ bỗng nghe mấy tiếng meo meo ngoài cửa sổ.

- Cái con lêu lổng ấy về đấy! - ông nói, rồi đứng dậy, định ra kéo cánh cửa sổ lên, nhưng tấm cửa đã bị các tông bịt kín nên không thể nhấc lên được.

- Ông tháo cái bìa ra! - người vợ bảo.

Người chồng đi lấy kìm nhổ đinh, nâng tấm cửa lên, con mèo nhẩy phốc một cái từ bậu cửa vào trong bếp, chỉ thoáng nhìn thấy cái bóng đen của nó trong bếp.

- Có phải bịt lại nữa không? - người chồng hỏi.

Người vợ lắc đầu.

- Thôi, ông đọc cho tôi nghe đi! - người vợ nói.

Người chồng cầm tấm bìa các tông có hình anh da đen dựng sát vào tủ lạnh. Từ dưới đất, anh da đen ngước lên nhìn ông ta cười có vẻ chế nhạo. Người chồng lại gần bàn, lấy trong tủ ra cái kính.

- Mixê! - ông gọi con mèo, và con mèo nhảy ngay lên lòng ông, ông vuốt vuốt lưng nó, khuôn mặt ông thoáng vui lên đôi chút.

- Đọc đi ông - người vợ nói.

- Từ đầu à? - người chồng hỏi.

- Không, ông cứ mở đại một chỗ nào ở giữa ấy, bà vợ đáp.

- Đọc thế để làm gì? - người chồng ngạc nhiên.

- Để làm gì ấy à? - người vợ nói - Tôi muốn biết xem chúng ta có lỗi không.

Người chồng đeo kính, giở giở một lúc rất nhiều trang. Đó là quyển sách ông ta cũng vớ hú họa trong bóng tối. Sách của họ không có bao nhiêu.

- “Còn tôi, - ông ta lấy giọng đọc chậm rãi, nhấn từng chữ, - gần như kinh hãi nhìn nó, nhìn những nét cân đối nhưng mạnh mẽ của nó, nhìn mớ tóc đen rủ thấp xuống trán, nhìn đôi mắt to ánh lên tia lửa lạnh lùng, và mãi nhiều năm sau khuôn mặt nó vẫn hiện lên trước mắt tôi như bức chân dung trong tranh vẽ của người họa sĩ”. Ông đọc thêm một đoạn nữa rồi để sách xuống bàn, nói: Đọc thế chúng ta vẫn chưa biết được gì.

- Phải - người vợ tán thành và tay trái cầm kim lại giơ ra trước ánh đèn, tay phải cầm chỉ vẫn không sao xuyên được vào lỗ kim.

- Tại sao bà cứ nhất định muốn biết? - người chồng hỏi - Tất cả chúng ta, bất cứ ai cũng đều có lỗi và không có lỗi, việc gì phải nghĩ đến chuyện ấy?

- Nếu chúng ta có lỗi, người vợ nói - thì hãy nâng tấm cửa sổ kia lên, để từ xa mọi người biết là chúng ta có nhà. Và chúng ta sẽ bật hết đèn trong đèn ngoài và mở toang cửa ra cho ai muốn vào thì vào.

Người chồng bỗng rùng mình, con mèo tụt khỏi lòng ông chạy biến vào góc nhà, nơi có cái dĩa sữa đặt cạnh cái sọt rác. Người vợ bỏ kim không xâu nữa, gục đầu xuống bàn, trên tấm áo khoác của chồng. Và mọi vật xung quanh bỗng im ắng đến nỗi cả hai người nghe rõ tiếng mèo húp sữa xoàm xoạp trong góc nhà.

- Bà vẫn nhất định muốn như thế à?- người chồng hỏi.

- Vâng, - người vợ đáp.

- Nhưng bà không tin chắc là cái thằng đứng ở cạnh quán “Con dê đỏ” ở đầu phố ấy là nó kia mà, - người chồng lại phản đối. Nhưng ông vẫn đứng dậy, ra kéo tấm cửa sổ lên, và ông chợt nhận ra cửa các nhà đều đóng kín mít, và ánh đèn nê ông trong căn bếp của nhà ông cứ sáng rực lên như ngọn hải đăng trong đêm tối.

- Mà cũng hoàn toàn có thể là - ông nói tiếp - thằng Hen-mut đã bị chúng giết chết trong cuộc đánh nhau ấy, và mặt nó bị chúng đâm nát.

- Phải, rất có thể - người vợ nói.

- Nếu đúng thế thì sao? - người chồng hỏi.

- Thì vẫn thế thôi! - người đàn bà đáp.

Người chồng đi ra ngoài, bật đèn hành lang lên và cứ để ngỏ cửa. Khi ông quay vào thì bà vợ đang ngồi úp mặt vào cái áo vải cứng bỗng ngẩng lên nhìn ông mỉm cười, trên má bà hằn lên hình cây thông nhỏ.

- Bây giờ thì bất cứ ai muốn vào nhà ta cũng được - người chồng nói có vẻ ân hận.

- Phải, - bà đồng tình và nụ cười lại càng dịu dàng hơn.

- Bây giờ - người chồng nói - thì chẳng phải mất công phá cửa nữa. Bất cứ lúc nào bọn chúng cũng có thể ập vào nhà ta với khẩu súng trong tay.

- Phải, - người vợ nói.

- Thế bây giờ chúng ta làm gì? - người chồng hỏi.

- Đợi - người vợ đáp.

Bà kéo chồng ngồi xuống cạnh mình, ông ngồi xuống cạnh bà, khoác áo vào, và con mèo lại nhảy lên lòng ông.

- Bây giờ mình có thể mở đài được - bà nói.

Người chồng giơ tay với cái đài - nó đặt trên nóc tủ đứng - ẩn vào một cái nút, và cái đèn báo màu xanh chiếu sáng tên các đài. Một điệu nhạc rất lạ quái gở, và nói chung không giống âm nhạc chút nào, vang lên. Vào mọi tối thì ông đã xoay ngay cái núm để chuyển sang đài khác, nhưng hôm nay ông cứ để nguyên, ngồi im không nhúc nhích. Người vợ cũng ngồi im không nhúc nhích, ngả đầu vào vai chồng, mắt nhắm lại. Ông cũng nhắm mắt - ánh sáng quá chói làm ông mệt mỏi. Thật là điên rồ, ông nghĩ, ngồi ở đây, như trên ngọn hải đăng, chờ bọn sát nhân đến, trong khi kẻ đó rất có thể không phải là thằng Hen-mut, rất có thể là thằng Hen-mut đã chết rồi. Ông thấy vợ đã bắt đầu thiu thiu, và ông tự nhủ, chờ khi nào bà ta thiếp hẳn đi, ông sẽ đứng lên ra kéo cửa sổ xuống, khóa cửa lại. Nhưng đã lâu lắm, bao nhiêu năm nay, vợ ông không ngả đầu vào vai ông mà thiếp đi như thế này, nét mặt bà cùng toàn bộ con người bà, cũng giống hệt như hồi nào, chỉ khác là có vài nếp nhăn nhỏ nơi đuôi mắt, nhưng ông không trông thấy những nếp nhăn cùng những sợi tóc bạc trên đầu bà, và bởi tất cả giống hệt như ngày nào, nên ông không muốn hẩy đầu bà ra, hơn nữa, nếu bà thức dậy, mọi chuyện lại có thể tái diễn lại từ đầu. Lại từ đầu, ông nghĩ, vì đúng là ngay từ đầu tôi với bà đã mong có đứa con, tôi lúc nào cũng chỉ ao ước có đứa con, nhưng mãi chúng mình vẫn không có con, tôi ao ước có một đứa như cái thằng tóc xoăn, ngồi hàng ghế thứ ba kia kìa, bà ạ, mà hình như có ai đang bước lên cầu thang hay sao ấy nhỉ? Hay là nó? Không được mở cửa, ông hiệu trưởng đã dặn thế, có nghĩa là phải thật im lặng, im lặng, phải nín thở. Khẽ chứ, khẽ chứ, chúng mình đã không yêu nó, và cái đầu tóc xoăn kia đã biến thành con thú dữ, xin mời các vị cứ vào tự nhiên, cửa mở đấy mà, các vị cứ bắn đi, vợ tôi chỉ muốn vậy thôi, bà ấy không đau đâu!

- Không đau đâu! - trong lúc nửa tỉnh nửa mê, ông buột miệng thốt to câu đó, và bà vợ mở mắt ra, mỉm cười, rồi cả hai lại thiếp đi và không nhận thấy con mèo đã trườn khỏi lòng họ và nhảy vọt qua cái cửa sổ để ngỏ, tuyết rơi từ trên mái nhà xuống, gió ấm thổi vào trong phòng, và trời đã bắt đầu sáng. Ngồi nép vào nhau, họ ngủ say sưa và ngon lành, và chẳng có ai đến giết họ cả, và nói chung cả đêm hôm đó cũng không có ai vào nhà họ.

Thái Hà dịch
(Trong tập “Truyện ngắn của các nhà văn Tây Đức” - Nxb “Tiến bộ” Matxcơva, 1979).

(9/10-84)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.

  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.