(SHO) Những người tôi gặp ở Huế trẻ hay già thường ngưỡng mộ anh là Thầy, một vị Thầy của môn âm nhạc, của tiếng, của lời, thân hay sơ mỗi người đều như chịu ít nhiều ân huệ của anh. Nhưng thoạt mơ hồ tôi hiểu danh hiệu ấy khác hơn khi được ngồi với anh, bên bàn cơm, khi vui ca, khi đi dạo, khi nghe anh hát, khi thấy anh ngồi yên giữa bạn bè, anh hiện ra là vị Thầy bên trên âm nhạc...
Anh Lê Gia Phàm khi còn hát cho Đài Phát thanh Huế
Ngày Huế còn xưa, ngày như anh thường hát khi được yêu cầu hát „Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có nàng thiếu nữ đẹp như trăng…“ có những mối tình thật đẹp, và những đôi bạn đời thật đẹp, mà chúng tôi, những cô gái còn cắp sách đến trường thường kể cho nhau nghe, chuyện thi nhân gặp được giai nhân kết duyên cầm sắt, ngày đó tôi nghe có người dạy đàn yêu cô tiểu thư đài cát tôn nữ, lại nghe thiên hạ Huế kể rằng, người cầm đàn ca hát lại khôi ngô tuấn tú nhất thành phố Huế và hơn thế nữa là quí tử của ngài Thượng thư họ Lê ở Truồi. Nghệ sĩ, Đẹp, Quí tộc, cả ba cọng lại có thể gây náo động ồn ào, gây choáng, gây kiêu, gây oai, đủ để thiên hạ phủ phục và chiêm ngưỡng, đứng xa không dám lại gần.
Kịp khi đối diện với anh, mới thấy ba đặc điểm của con người anh lại chỉ hòa thành một chữ rất đơn giản, chữ HIỀN, chữ LÀNH, mới lạ! Dấn thân vào chốn cầm ca, mấy mươi năm từng chung tiếng đàn với nhiều thế hệ nghệ sĩ danh tiếng, nổi trôi với trầm kha thời thế,Trịnh Công Sơn, Hà Thanh,Văn Giảng, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Đông, Tôn Nữ Hỷ Khương và luôn có mặt nơi ban đồng ca gia đình Phật tử, từng tham gia với ban nhạc Đài Phát thanh Huế, đem nhạc vào trường học, ra ngoài đời, người nghệ sĩ quí phái nhan như ngọc ấy vẫn không đổi chất ngọc trong suốt của bản chất tâm hồn, đến nỗi bao nhiêu đổi thay vô thường, bão tố dù hung dữ đến đâu cũng chỉ để mặt hồ sau đó lặng yên hơn. Là bạn của bao nhiêu nghệ sĩ, thành danh hay vô danh, là nhạc sư của nhiều thế hệ, có bao nhiêu bạn là bấy nhiêu thân ái, có biết bao nhiêu học trò là bấy nhiêu sự tri ân, tri ngộ.
Anh Lê Gia Phàm và tác giả.
Những người tôi gặp ở Huế trẻ hay già thường ngưỡng mộ anh là Thầy, một vị Thầy của môn âm nhạc, của tiếng, của lời, thân hay sơ mỗi người đều như chịu ít nhiều ân huệ của anh. Nhưng thoạt mơ hồ tôi hiểu danh hiệu ấy khác hơn khi được ngồi với anh, bên bàn cơm, khi vui ca, khi đi dạo, khi nghe anh hát, khi thấy anh ngồi yên giữa bạn bè, anh hiện ra là vị Thầy bên trên âm nhạc, một nhạc trưởng điều khiển được âm thanh, bằng an lành, bằng không lời, bằng lặng yên, hòa nhã, một thứ nhạc tâm hồn âm hưởng vô ngôn, tại thế.
Điều ấy tôi nhận rõ hơn bao giờ khi vội vã đến cho kịp thấy anh giờ cuối, nước hồ sen trước nhà, nơi anh thường ngồi với Như Ngân, phản chiếu ánh sáng im lặng sâu thẳm lạ, thứ ánh sáng âm nhạc hiền hòa của anh và tôi hiểu được, nhận ra tính nhân ái từ anh lan tỏa ra đến vô bờ. Những ngày cuối cùng này, mỗi khi đến viếng, nhìn mặt nước hồ, tiền sen ngày thứ sáu vẫn còn thưa lá, nước hồ lặng yên như thế, im lặng vô cùng, tưởng đến gương mặt an hòa, bình dị của anh với lời ca nhỏ „giã từ giã từ, chiều mưa giông tới“, tôi tự hỏi có phải mặt nước đã học theo gương anh mà lẳng lặng càng hơn, như chôn nỗi đau xuống tận đáy hồ trong giờ ly biệt? Hàng giờ vòng hoa viếng anh mỗi ngày một nhiều, không kể xiết, gia đình, bạn bè thân yêu quấn quýt bên anh đến xót. Nhìn hàng nghìn đóa hoa, nghe như những nốt nhạc ngân lên, giao hưởng trùng điệp không lời, bao nhiêu búp hoa là bấy nhiêu nốt nhạc đang được viết từ trái tim của anh, như lời nhắn nhân ái của người nghệ sĩ rằng ngày mai sen hồ sẽ nở và anh, nhẹ bước hồng trần, đang vừa bước thong dong vừa hát trong giấc „Mộng dưới hoa“(1), xin bước chân ngà chớ mỏi…
Huế, mùa sầu đông
8/4/2016
Thái Kim Lan
------------------------
(1)Mộng dưới hoa, thơ Đinh Hùng, nhạc Phạm Đình Chương, bài hát anh Lê Gia Phàm thường hát cho bạn bè nghe
Vậy mà, đã hơn 50 năm, từ những năm tháng trẻ tuổi… Huế, ngày ấy đã xa. Đã là kỷ niệm. Đã mất đi nhưng vẫn không ngừng sinh nở. Như những câu thơ, một thời…
Việt Đức - Võ Quê - Phạm Xuân Phụng - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Văn Vũ - Lê Phùng - Thùy Phương - Trần Băng Khuê
Trại sáng tác văn học với chủ đề “Vinh Xuân - Mùa biển gọi” do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND xã Vinh Xuân tổ chức, diễn ra trong thời gian từ ngày 3/5 đến ngày 10/5/2024, gồm 14 nhà văn, nhà thơ và 1 nhạc sĩ khách mời, đã cho ra đời 58 tác phẩm.
TRẦN NHẬT THU
LÊ XUÂN VIỆT
DƯƠNG PHƯỚC THU
Ngày 18/9/1945, tại số 43 đường Trần Hưng Đạo, thành phố Thuận Hóa, Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên - tiền thân của Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế ngày nay được thành lập.
CHU SƠN
Cuối năm 1963 tôi từ Hội An ra Huế để nhận lại tập thơ Quê Nhà và giấy phép xuất bản tại nha thông tin Trung Việt.
TRẦN DZẠ LỮ
Gần một đời người làm thơ, sống giữa Sài Gòn với bao nhiêu thăng trầm dâu bể, có những ngày đói rách, lang thang. Bạn bè thì nhiều, có kẻ nhớ người quên sống khắp cùng đất nước, nơi đâu cũng để lại trong tôi ít nhiều kỷ niệm.
Mặc dù được các bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng GS-TS Trần Văn Khê đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 2 giờ 55 phút ngày 24.6. Ông thọ 94 tuổi.
LTS: Ngày 17-7-1988 nhà thơ THANH TỊNH đã qua đời tại Hà Nội sau một cơn bệnh nặng, thọ 77 tuổi. Tưởng niệm nhà thơ, người anh người đồng nghiệp đáng kính của anh em văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của anh Hoàng Trung Thông và đoạn trích trong Điếu văn đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ tại trụ sở Hội văn nghệ B.T.T ngày 19-7-1988.
DƯƠNG THỊ NHỤN
Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.
LGT: Thúc Tề và Trần Kim Xuyến là hai nhà báo có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Một vấn đề đặt ra là: trong hai nhà báo liệt sĩ nói trên, ai mới đúng là “Nhà báo liệt sĩ đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam?”. Nhiều ý kiến công nhận nhà báo Trần Kim Xuyến là nhà báo liệt sĩ đầu tiên, trong khi các tư liệu lại cho chúng ta thấy Thúc Tề mới đúng là nhà báo liệt sĩ đầu tiên.
TÔ NHUẬN VỸ
Trong số bạn bè thân tình của tôi, Ngô Minh rất “lạ”. Lạ đầu tiên là… nhỏ thó. Người thấp bé, tròn vo, tròn vo từ mấy chục năm ni luôn, chừ lại suốt ngày (e cả suốt đêm) ngồi máy tính viết bài.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như: Nhằm thẳng quân thù mà bắn; Thuyền trưởng; Rừng xưa xanh lá ;Kiếp chó; Những người rách việc; Chuyện kể năm 2000... đã qua đời vào lúc 6 giờ sáng ngày 18.12. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bước vào sáng tác văn chương từ năm 20 tuổi và đã có một bút lực dồi dào để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị.
Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 , quê làng Trà Vi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Hội Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và bị Pháp bắt vào cuối năm 1930 và bị giam hai tháng rưỡi tại thị xã Thái Bình.
Thi sĩ Kiên Giang là tác giả những bài thơ nổi tiếng Hoa trắng thôi cài lên áo tím, Tiền và lá, Ngủ bên chân mẹ… Ông cũng là soạn giả của những vở cải lương quen thuộc như Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Chi - Mỵ Nương và hàng trăm bản vọng cổ. Như người bạn văn tâm giao Sơn Nam và thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính, Kiên Giang cả một đời phiêu bạt sống rày đây mai đó, cho đến khi trái tim đột ngột ngừng đập”...
Ở tuổi 89, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - tác giả của ca khúc nổi tiếng "Dư âm" sống nghèo túng, bệnh tật và cô đơn trong căn nhà nhỏ giữa lòng Sài Gòn.
NGÔ ĐÌNH HẢI
Nhà văn Trần Áng Sơn sinh ngày 12/7/1937 tại Hải Phòng, lớn lên ở Huế, trưởng thành ở Sài Gòn, mất ngày: 18/5/ 2014.
QUANG VIÊN
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là vị tướng tài năng và đức độ. “Ông là một danh tướng, một nhà chính trị và nhà quân sự lỗi lạc” - Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thốt lên khi nhớ về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như vậy. Trong cuộc sống tình cảm gia đình, cũng như ứng xử với văn hóa văn nghệ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng hết sức chí tình, có những việc làm rất đáng khâm phục. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về ông rất hay: “Sáng trong như ngọc một con người”…
NGUYỄN VĂN XÊ
hồi ký
Buổi sáng mùa thu ngày 20-9-1940. Nơi nhà thương Nam ở Quy Hòa những bệnh nhân già yếu đang run lên vì gió lạnh từ biển thổi vào.