Từ phân tâm học tìm hiểu tính hiện đại thể hiện qua tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" của Bảo Ninh

15:12 02/03/2009
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

Nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa đã len lỏi và xuất hiện trong nhiều tác phẩm gần đây. Điều đó thể hiện qua một số tác phẩm, người đọc không chỉ thấy hình ảnh cụ thể của một xã hội, một dân tộc mà còn phát hiện ra hình ảnh của những con người xuất hiện trong nghệ thuật hiện đại. Đó là sự phát triển ý niệm tự do và phát huy tinh thần dân chủ ở con người, phát hiện con người vô thức, tâm linh.
Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tính hiện đại đó là "Thân phận của tình yêu" của tác giả Bảo Ninh.

Tác phẩm "Thân phận của tình yêu" lúc đầu có tên "Nỗi buồn chiến tranh" là một trong ba tiểu thuyết được giải của Hội Nhà văn Việt năm 1991. Đây là tác phẩm gây nhiều xôn xao trong làng văn và độc giả, khen cũng nhiều mà chê chẳng ít. Trong đó đã có các bài viết như "Giải thưởng Hội Nhà văn 1991 và tình hình văn học hiện nay - Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam" (Báo Văn nghệ số 38 ngày 21/9/1991); "Thảo luận về tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" (Văn nghệ số 37 ngày 14/9/1991); "Nghĩ gì khi đọc "Thân phận của tình yêu" của tác giả Đỗ Văn Khang (Văn nghệ số 13 ngày 26/10/1991) hay bài của Nguyễn Khắc Phê trên báo Văn nghệ số 44 ngày 02/11/1991). Nhìn chung, các bài báo và các ý kiến thảo luận đều đề cập đến góc độ tác giả, phương diện phản ánh hiện thực hoặc về chủ đề, về cấu trúc, về thi pháp... Có thể nêu một vài những nhận xét tiêu biểu như: Phạm Tiến Duật, Lê Quang Trang cho rằng: Toàn bộ tác phẩm là một bản sonat buồn, nỗi buồn cao thượng và trong trẻo làm nên cái gốc đúc cho tác phẩm. Nỗi buồn là cái lõi của tác phẩm.

Theo Bùi Việt Thắng nhận xét: tác phẩm có cấu trúc đặc biệt. Cấu trúc vòng tròn hay cấu trúc lồng giống như trò chơi Rubic. Nhiều tầng lớp (đa tuyến) nhưng lại mang dáng vẻ gọn nhẹ, linh hoạt...
Còn Đỗ Văn Khang :"Đây vẫn là một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời"...
Nhìn chung, dù có ý kiến trái ngược nhau nhưng các nhà phê bình đều chủ yếu đánh giá về nội dung, tư tưởng, tính hiện thực của tác phẩm. Riêng về mặt thi pháp, có tác giả Đỗ Đức Hiểu, Bùi Việt Thắng, Trần Đình Sử có ý kiến như sau: Bùi Việt Thắng cho rằng: Về phương diện thi phaëp, ký ức trong "Thân phận của tình yêu" rất đậm đặc (Tỷ lệ: quá khứ 3/hiện tại 1); Còn Trần Đình Sử nêu: Tác phẩm không có các nhân vật trọn vẹn theo lối truyền thống, nhân vật của Bảo Ninh là những mảnh đời, mẫu đời vụn nát, dang dở, chắp vá hợp lại thành "bản hoà tấu của những khuôn mặt và những cuộc đời thường" thành "tiếng rì rầm của cuộc đời thường"; Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong "thi pháp hiện đại" đã phân tích khá rõ về kết cấu, về thời gian, không gian và đặc biệt là "một hiện tượng ngôn từ lạ lùng, mang tính đa thanh, tính đối thoại... (l,tr.267).

Với bài viết này, người viết xin tìm hiểu về tính hiện đại trong tác phẩm qua việc tác giả xây dựng nhân vật Kiên. Có thể nói toàn bộ tác phẩm của Bảo Ninh đã phản ánh quá trình sáng tạo của nhà văn qua nhân vật này. Ta có thể nhận ra học thuyết Phân tâm học được biểu hiện rất cụ thể qua nhân vật nhà văn Kiên trong tác phẩm.
Theo Sigmund Freud (1865 - 1939) - Người sáng lập ra học thuyết Phân tâm học thì sáng tạo nghệ thuật là cái thay thế thoả mãn cho bản năng. Bản năng là một xung năng làm nên sự sống, sức năng động sáng tạo của con người không thể dập tắt. Song, nó luôn bị các thể chế xã hội như phong tục, dư luận, pháp luật... hạn chế, ngăn cấm. Để giải phóng, thoả mãn ham muốn bị dồn nén đó, con người sáng tạo văn học nghệ thuật- Đó là sự thăng hoa. Với Freud, nhà văn khai thác thế giới ham muốn đầy bí ẩn trong tiềm thức và vô thức, trong đáy tối mờ của tâm hồn con người và biểu hiện nó bằng ngôn từ nghệ thuật. Cụ thể là nhà văn mượn cái vô thức để sáng tác. Mà vô thức là một quá trình dồn nén của những thúc đẩy bản năng đã bị chôn vùi, là tất cả những kinh nghiệm đau đớn của tuổi thơ (dù những kinh nghiệm này đã bị lãng quên từ lâu hay chính bản thân người nghệ sĩ cũng không ý thức được) và trong vô thức còn lắng đọng những dấu vết của đời sống riêng tư ở mỗi người. Tất cả những quá khứ bị dồn ép, chứa đầy những cảm xúc đau đớn, thay vì tan biến mất đi theo thời gian thì nó vẫn tồn tại để chi phối con người và con người khó kiểm soát được nó. Sự giải toả được bộc lộ ở những hành động kỳ quặc, những giấc mơ hay những biểu tượng ám ảnh...

Tác giả Bảo Ninh đã xây dựng một nhà văn Kiên như thế trong tác phẩm của mình. Có thể khái quát quá trình trở thành nhà văn của nhân vật bằng một câu trong tác phẩm như sau:
"... Mất mẹ từ tấm bé
Không cha từ ấu thơ,
Đứa trẻ chẳng mồ côi
Lớn lên cùng thành phố
Trải qua thời chiến tranh...
Đứa trẻ chẳng mồ côi..."
(5, tr 168)
Nếu sắp xếp theo thứ tự về cuộc đời của nhân vật Kiên trong tác phẩm ta sẽ thấy được cả bốn mươi năm đời anh là một quá trình bị dồn nén liên tục với những kỷ niệm đau buồn của tuổi thơ, những dục vọng bị kìm nén và cuộc chiến tranh đầy đau thương, mất mát... Điều đó khiến cho Kiên luôn tự nhủ "phải viết thôi". "Viết để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi..." (5, tr.198). Có thể nói, thế giới vô thức đã ngự trị hoàn toàn ở nhân vật này trong suốt quá trình sáng tạo.

Chấn thương từ thời ấu thơ của Kiên được đẩy vào vùng vô thức "Anh chẳng nhớ gì mấy nữa về tấn bi kịch gia đình, không biết vì sao cha mẹ lại chia tay , không biết rằng cha mẹ đã đau khổ như thế nào" (5, tr. 72, 73). Chỉ còn trong ấn tượng của tuổi thơ là nỗi sợ hãi khi chứng kiến cha mình ngồi đốt tất cả sự nghiệp của ông. Sau mười năm đi biệt mà nỗi sợ vẫn đeo đuổi. Có thể chấn thương thời ấu thơ đã đeo đuổi mãi trong đời Kiên. Theo Freud, sự dồn ép và sự kháng cự là nguồn gốc của những mặc cảm. Sự dồn ép có được do những xúc cảm đau đớn gắn liền với những khao khát tình yêu thương của cha mẹ mà Kiên không thể có "mọi tình cảm như thể bị nuốt đi đâu cả, chỉ làm cho lòng anh thêm mặc cảm về sự què quặt hiển nhiên của tâm hồn mình. Còn hơn là một khuyết tật, trong Kiên rõ ràng là có mầm bẩm sinh của độc ác, của thói nhẫn tâm, khô rắn, lạnh lùng. Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt. Một lương tri không lành. Có lẽ anh lớn lên với chỉ nhiều nhất là một phần hai nhân cách" (5, tr.162, 163). Tâm trạng của Kiên, những suy nghĩ của Kiên biểu hiện sự hình thành nhân cách con người theo Phân tâm học. Từ bầu không khí nặng nề, chia cắt của gia đình đã không đáp ứng nhu cầu cần được yêu thương của Kiên trong thời thơ ấu - Điều đó đã tạo cho nhân vật méo mó về nhân cách.

Những diễn biến tác động mạnh nhất đối với Kiên là tuổi mười bảy. Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật được tác giả xây dựng ở lứa tuổi này. Theo học thuyết Phân tâm học, đây được gọi là thời kỳ sinh dục. Thời kỳ mà ở mỗi đứa trẻ có những biến đổi sâu sắc về sinh lý, thời kỳ có ý nghĩa đối với cuộc sống tinh thần của trẻ sau này. Tình yêu đến với Kiên trong thời kỳ đó.
Người phụ nữ đầu tiên khơi dậy trong Kiên những bản năng giới tính là Hạnh, người mà Kiên gọi là chị. "Toàn thân đột ngột sững sờ như thể điện giật, cứng lại trong một nỗi tê dại mà trong đời cậu cho đến khi đó chưa từng cảm thấy bao giờ" (5,tr.82). Cái khát vọng ấy không được thoả mãn khiến Kiên luôn chờ đợi, chờ đợi cái điều Hạnh định nói nhưng không nói bao giờ. Và rồi đến khi yêu Phương, tình yêu giữa Kiên và Phương trở thành cái tội lớn vì nó khiến các thầy nổi giận, chi đoàn phẫn nộ, và tự bản thân họ thấy quá đáng. Bản năng thì thôi thúc nhưng trong Kiên luôn vang lên một lời nhắc nhở: Khoan yêu! Tiếng kêu bản năng tự đáy lòng đã được thức tỉnh "anh không được, anh không thể" (5. tr.177). Ngay mỗi lần gần Phương, dù cho tình cảm có tha thiết thì Kiên vẫn không dám. Theo Freud, tinh thần con người bị chi phối bởi hai cơ chế: đó là nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại. Nguyên tắc khoái lạc là bản năng đòi hỏi sự thoả mãn, nhưng tất cả những mong muốn đó còn chịu sự chi phối của thực tại. Nếu không có sự thoả hiệp của hai nguyên tắc này sẽ tạo ra sự ức chế tinh thần.

Với Kiên, ở cái tuổi mười bảy, cái đêm cùng Phương trên toa tàu "những cơn rạo rực như thể một lưỡi dao chỉ tuốt khỏi vỏ được nửa chừng đã bị chững lại...(5,tr.249). Ấn tượng sâu đậm và đớn đau nhất đối với Kiên cũng chính đêm đó khi Phương đã bị kẻ khác chiếm đoạt. Sự dồn nén của ngày đầu bước vào cuộc chiến làm cho Kiên ngập tràn mộng mị, những giấc mơ lay thức tâm hồn. "Những giấc mơ đậm đặc cảm giác, nóng bỏng ngọt vị như mật ứa ra trào lấp đầy cõi mộng mị" (5. tr. 37). Những giấc mơ tình yêu luôn hiện về giữa những cái chết, giữa tai hoạ, đau khổ và trong giấc mơ ấy "Phương thực sự đã hoá thành ám ảnh" (5, tr. 185). Hàng đêm, khi cánh trinh sát giấu anh rời khỏi lán để đến với người tình thì Kiên tự giải toả mình "Bằng những giấc mộng yêu đương mờ ảo bóng hình Phương, thấm thía ân ái" (5, tr.185). Trong tác phẩm, mười bốn lần nhà văn nói về những giấc mộng của Kiên: mộng trong chiến tranh, mộng giữa đời thực, mộng trong lúc chiến đấu và mộng trong hoà bình. Vì Phương mãi mãi không thuộc về Kiên, mãi mãi chỉ là niềm khát khao hoài vọng. Hình ảnh của Phương với tình yêu trong trắng, hồn nhiên đã chết, đã chết cùng bao ước mơ dở dang, cay đắng. Để rồi "hàng đêm anh miệt mài mê mẩn chìm trong cái vuốt ve vô tận của mộng mị" (5, tr. 218, 219) và "những sự kiện, những hình ảnh chẳng liên gì tới Phương thế mà nhờ nàng anh đã liên tưởng đến". Cơ chế đó trong Phân tâm học gọi là sự chuyển di. Nhân vật Kiên không chỉ sống trong mộng mị mà còn đắm chìm trong ký ức. Hơn mười lần nhà văn lặp đi lăp lại từ "ám ảnh". Đó chính là lý do khiến Kiên trở thành nhà văn. Đối với Kiên, việc viết văn đó là thiên mệnh "chính bởi thiên mệnh ấy mà anh đã có một tuổi thơ như thế, một tuổi hoa niên, một thời chiến trận như thế..." (5, tr. 64). Quá trình sáng tạo của nhân vật Kiên là quá trình thăng hoa của những ức chế bị dồn nén. Trong ý thức thì Kiên muốn viết về cộng đồng, những con người kỳ thú của hiện đại, văn của những người đương thời viết về chiến tranh anh không xem, còn tác phẩm của Kiên dự định một đằng thì hình thành một nẻo... Công việc viết văn của Kiên không tuân theo ý chí mà ngòi bút Kiên đang viết trong mộng mị nhờ vào phép liên tưởng nhiệm màu của hồi ức. Những dồn nén, kỷ niệm đớn đau... Kiên đã nhủ lòng phải quên nhưng bỗng như nó bừng sống dậy dưới ngòi bút của anh. Được viết, được giải toả đối với Kiên là sự cứu rỗi, là niềm hạnh phúc. Mà Phương là nguyên nhân "nếu không gặp Phương anh đã không viết văn" (5, tr. 280).

Nói về quá trình vô thức trong sáng tạo, ý kiến của J.Bellemin - Noel: "Việc phân tích quá trình vô thức có thiên hướng can thiệp ở nơi nào có "trí tưởng tượng" hoạt động, có nghĩa là những xúc động, một tác phẩm hư cấu thậm chí rộng hơn là một tác phẩm miêu tả và những hiệu quả tượng trưng" (2, tr. 87). Ý kiến này giúp ta hiểu thêm về nhân vật Kiên trong tác phẩm. Bởi khi miêu tả nhân vật của mình, nhà văn Bảo Ninh cho ta thấy tâm trạng Kiên viết như trong cơn mộng du, xúc động tột đỉnh, kiệt quệ cả xác thân. Kiên trong quá trình sáng tạo như đang sống ở một thế giới khác với những nhân vật nối nhau giục giã, với những mảnh đời vá víu, với những kỷ niệm chắp nối và những con mưa thi thể dội xuống... đến mức Kiên không nhận ra được hình ảnh gần gũi, quen thuộc hàng ngày của cuộc sống đời thường. Cuộc đời mới có nghĩa của Kiên là những ký ức, kỷ niệm và ám ảnh. Tất cả là điều Kiên không muốn "tự nó chứ không phải tự Kiên. Tác phẩm tự nó cấu trúc nên thời gian của nó, tự định hướng chọn luồng và tự chọn lấy một bến bờ... Nói chung anh hết sức thụ động hầu như trở thành bất khả tri trước các trang viết của chình mình" (5, tr. 111). Kiên viết mê man, đắm đuối mà đối với Kiên đó là một món nợ mà anh phải trả. Mục đích sự nghiệp là "định hình trên giấy những giấc mơ quá khứ" (5, tr. 160). Đó là sự đồng hiện của "những đoạn đời khắc nghiệt, so le nhau hàng năm trời đã đột hiện cùng một lúc, đan xen, lồng vào nhau trên cùng một thời điểm của hồi tưởng " (5, tr. 240, 241). Cõi vô thức của Kiên là những điều Kiên không thể nghĩ là mình sẽ nhớ như hình ảnh của Hạnh. Chưa bao giờ Kiên nghĩ sẽ viết về kỷ niệm với Hạnh mà kỷ niệm ấy vẫn hiện diện trong sáng tác của anh. Tuổi thơ Kiên không nhớ rõ, không biết vui buồn khi cha mẹ chia tay cũng hiện diện và cả những con người tưởng như không thể nhớ cũng được lay tỉnh bởi ký ức. Đó là vùng ý thức hoặc tiền ý thức đã bị đẩy sâu vào vùng vô thức đến bây giờ lên tiếng gọi để Kiên tạo nên tác phẩm mình.

Tính hiện đại của tác phẩm "Thân phận của tình yêu" được thể hiện qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Kiên. Cụ thể hơn nữa là nhà văn đã khai thác triệt để đời sống nội tâm của nhân vật, những yếu tố tác động đến quá trình sáng tạo của nhân vật. Đề cập đến vô thức thúc đẩy hình thành quá trình sáng tạo là một điều mới mẻ. Từ Phân tâm học, ta hiểu được nhân vật Kiên, ta hiểu được những động lực từ bên ngoài tâm hồn của người nghệ sĩ khi sáng tác nghệ thuật. Đó là sự đóng góp không nhỏ của Bảo Ninh trong quá trình đổi mới nền văn học của nước ta.

Tuy nhiên, quá trình sáng tạo của nhà văn không phải chỉ là sự giải tỏa của những dồn nén. Sự giải toả không thể quyết định toàn bộ quá trình sáng tạo. Nếu cảm hứng chỉ là vô thức thì nó mang tính nhất thời, còn cảm hứng sáng tạo thật sự bao giờ cũng là kết quả của thai nghén lâu dài, suy tư, cấu tứ, tưởng tượng trước đó... Nói như Bôđơle: Cảm hứng là nghị lực, là sự phấn khởi mang tính chất trí tuệ và là khả năng nương giữ các sức mạnh trong trạng thái kích thích" [3, tr.211].
Vậy, nếu khai phá con người vô thức, tâm linh đồng hành với con người ý thức, tự chủ thì có lẽ nhân vật mà Bảo Ninh xây dựng vừa hiện đại lại vừa có sức thuyết phục và hơn nữa mới khẳng định sứ mệnh cao cả của nhà văn.
   T.T.H
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.