Từ phân tâm học tìm hiểu tính hiện đại thể hiện qua tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" của Bảo Ninh

15:12 02/03/2009
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

Nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa đã len lỏi và xuất hiện trong nhiều tác phẩm gần đây. Điều đó thể hiện qua một số tác phẩm, người đọc không chỉ thấy hình ảnh cụ thể của một xã hội, một dân tộc mà còn phát hiện ra hình ảnh của những con người xuất hiện trong nghệ thuật hiện đại. Đó là sự phát triển ý niệm tự do và phát huy tinh thần dân chủ ở con người, phát hiện con người vô thức, tâm linh.
Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tính hiện đại đó là "Thân phận của tình yêu" của tác giả Bảo Ninh.

Tác phẩm "Thân phận của tình yêu" lúc đầu có tên "Nỗi buồn chiến tranh" là một trong ba tiểu thuyết được giải của Hội Nhà văn Việt năm 1991. Đây là tác phẩm gây nhiều xôn xao trong làng văn và độc giả, khen cũng nhiều mà chê chẳng ít. Trong đó đã có các bài viết như "Giải thưởng Hội Nhà văn 1991 và tình hình văn học hiện nay - Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam" (Báo Văn nghệ số 38 ngày 21/9/1991); "Thảo luận về tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" (Văn nghệ số 37 ngày 14/9/1991); "Nghĩ gì khi đọc "Thân phận của tình yêu" của tác giả Đỗ Văn Khang (Văn nghệ số 13 ngày 26/10/1991) hay bài của Nguyễn Khắc Phê trên báo Văn nghệ số 44 ngày 02/11/1991). Nhìn chung, các bài báo và các ý kiến thảo luận đều đề cập đến góc độ tác giả, phương diện phản ánh hiện thực hoặc về chủ đề, về cấu trúc, về thi pháp... Có thể nêu một vài những nhận xét tiêu biểu như: Phạm Tiến Duật, Lê Quang Trang cho rằng: Toàn bộ tác phẩm là một bản sonat buồn, nỗi buồn cao thượng và trong trẻo làm nên cái gốc đúc cho tác phẩm. Nỗi buồn là cái lõi của tác phẩm.

Theo Bùi Việt Thắng nhận xét: tác phẩm có cấu trúc đặc biệt. Cấu trúc vòng tròn hay cấu trúc lồng giống như trò chơi Rubic. Nhiều tầng lớp (đa tuyến) nhưng lại mang dáng vẻ gọn nhẹ, linh hoạt...
Còn Đỗ Văn Khang :"Đây vẫn là một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời"...
Nhìn chung, dù có ý kiến trái ngược nhau nhưng các nhà phê bình đều chủ yếu đánh giá về nội dung, tư tưởng, tính hiện thực của tác phẩm. Riêng về mặt thi pháp, có tác giả Đỗ Đức Hiểu, Bùi Việt Thắng, Trần Đình Sử có ý kiến như sau: Bùi Việt Thắng cho rằng: Về phương diện thi phaëp, ký ức trong "Thân phận của tình yêu" rất đậm đặc (Tỷ lệ: quá khứ 3/hiện tại 1); Còn Trần Đình Sử nêu: Tác phẩm không có các nhân vật trọn vẹn theo lối truyền thống, nhân vật của Bảo Ninh là những mảnh đời, mẫu đời vụn nát, dang dở, chắp vá hợp lại thành "bản hoà tấu của những khuôn mặt và những cuộc đời thường" thành "tiếng rì rầm của cuộc đời thường"; Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong "thi pháp hiện đại" đã phân tích khá rõ về kết cấu, về thời gian, không gian và đặc biệt là "một hiện tượng ngôn từ lạ lùng, mang tính đa thanh, tính đối thoại... (l,tr.267).

Với bài viết này, người viết xin tìm hiểu về tính hiện đại trong tác phẩm qua việc tác giả xây dựng nhân vật Kiên. Có thể nói toàn bộ tác phẩm của Bảo Ninh đã phản ánh quá trình sáng tạo của nhà văn qua nhân vật này. Ta có thể nhận ra học thuyết Phân tâm học được biểu hiện rất cụ thể qua nhân vật nhà văn Kiên trong tác phẩm.
Theo Sigmund Freud (1865 - 1939) - Người sáng lập ra học thuyết Phân tâm học thì sáng tạo nghệ thuật là cái thay thế thoả mãn cho bản năng. Bản năng là một xung năng làm nên sự sống, sức năng động sáng tạo của con người không thể dập tắt. Song, nó luôn bị các thể chế xã hội như phong tục, dư luận, pháp luật... hạn chế, ngăn cấm. Để giải phóng, thoả mãn ham muốn bị dồn nén đó, con người sáng tạo văn học nghệ thuật- Đó là sự thăng hoa. Với Freud, nhà văn khai thác thế giới ham muốn đầy bí ẩn trong tiềm thức và vô thức, trong đáy tối mờ của tâm hồn con người và biểu hiện nó bằng ngôn từ nghệ thuật. Cụ thể là nhà văn mượn cái vô thức để sáng tác. Mà vô thức là một quá trình dồn nén của những thúc đẩy bản năng đã bị chôn vùi, là tất cả những kinh nghiệm đau đớn của tuổi thơ (dù những kinh nghiệm này đã bị lãng quên từ lâu hay chính bản thân người nghệ sĩ cũng không ý thức được) và trong vô thức còn lắng đọng những dấu vết của đời sống riêng tư ở mỗi người. Tất cả những quá khứ bị dồn ép, chứa đầy những cảm xúc đau đớn, thay vì tan biến mất đi theo thời gian thì nó vẫn tồn tại để chi phối con người và con người khó kiểm soát được nó. Sự giải toả được bộc lộ ở những hành động kỳ quặc, những giấc mơ hay những biểu tượng ám ảnh...

Tác giả Bảo Ninh đã xây dựng một nhà văn Kiên như thế trong tác phẩm của mình. Có thể khái quát quá trình trở thành nhà văn của nhân vật bằng một câu trong tác phẩm như sau:
"... Mất mẹ từ tấm bé
Không cha từ ấu thơ,
Đứa trẻ chẳng mồ côi
Lớn lên cùng thành phố
Trải qua thời chiến tranh...
Đứa trẻ chẳng mồ côi..."
(5, tr 168)
Nếu sắp xếp theo thứ tự về cuộc đời của nhân vật Kiên trong tác phẩm ta sẽ thấy được cả bốn mươi năm đời anh là một quá trình bị dồn nén liên tục với những kỷ niệm đau buồn của tuổi thơ, những dục vọng bị kìm nén và cuộc chiến tranh đầy đau thương, mất mát... Điều đó khiến cho Kiên luôn tự nhủ "phải viết thôi". "Viết để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi..." (5, tr.198). Có thể nói, thế giới vô thức đã ngự trị hoàn toàn ở nhân vật này trong suốt quá trình sáng tạo.

Chấn thương từ thời ấu thơ của Kiên được đẩy vào vùng vô thức "Anh chẳng nhớ gì mấy nữa về tấn bi kịch gia đình, không biết vì sao cha mẹ lại chia tay , không biết rằng cha mẹ đã đau khổ như thế nào" (5, tr. 72, 73). Chỉ còn trong ấn tượng của tuổi thơ là nỗi sợ hãi khi chứng kiến cha mình ngồi đốt tất cả sự nghiệp của ông. Sau mười năm đi biệt mà nỗi sợ vẫn đeo đuổi. Có thể chấn thương thời ấu thơ đã đeo đuổi mãi trong đời Kiên. Theo Freud, sự dồn ép và sự kháng cự là nguồn gốc của những mặc cảm. Sự dồn ép có được do những xúc cảm đau đớn gắn liền với những khao khát tình yêu thương của cha mẹ mà Kiên không thể có "mọi tình cảm như thể bị nuốt đi đâu cả, chỉ làm cho lòng anh thêm mặc cảm về sự què quặt hiển nhiên của tâm hồn mình. Còn hơn là một khuyết tật, trong Kiên rõ ràng là có mầm bẩm sinh của độc ác, của thói nhẫn tâm, khô rắn, lạnh lùng. Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt. Một lương tri không lành. Có lẽ anh lớn lên với chỉ nhiều nhất là một phần hai nhân cách" (5, tr.162, 163). Tâm trạng của Kiên, những suy nghĩ của Kiên biểu hiện sự hình thành nhân cách con người theo Phân tâm học. Từ bầu không khí nặng nề, chia cắt của gia đình đã không đáp ứng nhu cầu cần được yêu thương của Kiên trong thời thơ ấu - Điều đó đã tạo cho nhân vật méo mó về nhân cách.

Những diễn biến tác động mạnh nhất đối với Kiên là tuổi mười bảy. Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật được tác giả xây dựng ở lứa tuổi này. Theo học thuyết Phân tâm học, đây được gọi là thời kỳ sinh dục. Thời kỳ mà ở mỗi đứa trẻ có những biến đổi sâu sắc về sinh lý, thời kỳ có ý nghĩa đối với cuộc sống tinh thần của trẻ sau này. Tình yêu đến với Kiên trong thời kỳ đó.
Người phụ nữ đầu tiên khơi dậy trong Kiên những bản năng giới tính là Hạnh, người mà Kiên gọi là chị. "Toàn thân đột ngột sững sờ như thể điện giật, cứng lại trong một nỗi tê dại mà trong đời cậu cho đến khi đó chưa từng cảm thấy bao giờ" (5,tr.82). Cái khát vọng ấy không được thoả mãn khiến Kiên luôn chờ đợi, chờ đợi cái điều Hạnh định nói nhưng không nói bao giờ. Và rồi đến khi yêu Phương, tình yêu giữa Kiên và Phương trở thành cái tội lớn vì nó khiến các thầy nổi giận, chi đoàn phẫn nộ, và tự bản thân họ thấy quá đáng. Bản năng thì thôi thúc nhưng trong Kiên luôn vang lên một lời nhắc nhở: Khoan yêu! Tiếng kêu bản năng tự đáy lòng đã được thức tỉnh "anh không được, anh không thể" (5. tr.177). Ngay mỗi lần gần Phương, dù cho tình cảm có tha thiết thì Kiên vẫn không dám. Theo Freud, tinh thần con người bị chi phối bởi hai cơ chế: đó là nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại. Nguyên tắc khoái lạc là bản năng đòi hỏi sự thoả mãn, nhưng tất cả những mong muốn đó còn chịu sự chi phối của thực tại. Nếu không có sự thoả hiệp của hai nguyên tắc này sẽ tạo ra sự ức chế tinh thần.

Với Kiên, ở cái tuổi mười bảy, cái đêm cùng Phương trên toa tàu "những cơn rạo rực như thể một lưỡi dao chỉ tuốt khỏi vỏ được nửa chừng đã bị chững lại...(5,tr.249). Ấn tượng sâu đậm và đớn đau nhất đối với Kiên cũng chính đêm đó khi Phương đã bị kẻ khác chiếm đoạt. Sự dồn nén của ngày đầu bước vào cuộc chiến làm cho Kiên ngập tràn mộng mị, những giấc mơ lay thức tâm hồn. "Những giấc mơ đậm đặc cảm giác, nóng bỏng ngọt vị như mật ứa ra trào lấp đầy cõi mộng mị" (5. tr. 37). Những giấc mơ tình yêu luôn hiện về giữa những cái chết, giữa tai hoạ, đau khổ và trong giấc mơ ấy "Phương thực sự đã hoá thành ám ảnh" (5, tr. 185). Hàng đêm, khi cánh trinh sát giấu anh rời khỏi lán để đến với người tình thì Kiên tự giải toả mình "Bằng những giấc mộng yêu đương mờ ảo bóng hình Phương, thấm thía ân ái" (5, tr.185). Trong tác phẩm, mười bốn lần nhà văn nói về những giấc mộng của Kiên: mộng trong chiến tranh, mộng giữa đời thực, mộng trong lúc chiến đấu và mộng trong hoà bình. Vì Phương mãi mãi không thuộc về Kiên, mãi mãi chỉ là niềm khát khao hoài vọng. Hình ảnh của Phương với tình yêu trong trắng, hồn nhiên đã chết, đã chết cùng bao ước mơ dở dang, cay đắng. Để rồi "hàng đêm anh miệt mài mê mẩn chìm trong cái vuốt ve vô tận của mộng mị" (5, tr. 218, 219) và "những sự kiện, những hình ảnh chẳng liên gì tới Phương thế mà nhờ nàng anh đã liên tưởng đến". Cơ chế đó trong Phân tâm học gọi là sự chuyển di. Nhân vật Kiên không chỉ sống trong mộng mị mà còn đắm chìm trong ký ức. Hơn mười lần nhà văn lặp đi lăp lại từ "ám ảnh". Đó chính là lý do khiến Kiên trở thành nhà văn. Đối với Kiên, việc viết văn đó là thiên mệnh "chính bởi thiên mệnh ấy mà anh đã có một tuổi thơ như thế, một tuổi hoa niên, một thời chiến trận như thế..." (5, tr. 64). Quá trình sáng tạo của nhân vật Kiên là quá trình thăng hoa của những ức chế bị dồn nén. Trong ý thức thì Kiên muốn viết về cộng đồng, những con người kỳ thú của hiện đại, văn của những người đương thời viết về chiến tranh anh không xem, còn tác phẩm của Kiên dự định một đằng thì hình thành một nẻo... Công việc viết văn của Kiên không tuân theo ý chí mà ngòi bút Kiên đang viết trong mộng mị nhờ vào phép liên tưởng nhiệm màu của hồi ức. Những dồn nén, kỷ niệm đớn đau... Kiên đã nhủ lòng phải quên nhưng bỗng như nó bừng sống dậy dưới ngòi bút của anh. Được viết, được giải toả đối với Kiên là sự cứu rỗi, là niềm hạnh phúc. Mà Phương là nguyên nhân "nếu không gặp Phương anh đã không viết văn" (5, tr. 280).

Nói về quá trình vô thức trong sáng tạo, ý kiến của J.Bellemin - Noel: "Việc phân tích quá trình vô thức có thiên hướng can thiệp ở nơi nào có "trí tưởng tượng" hoạt động, có nghĩa là những xúc động, một tác phẩm hư cấu thậm chí rộng hơn là một tác phẩm miêu tả và những hiệu quả tượng trưng" (2, tr. 87). Ý kiến này giúp ta hiểu thêm về nhân vật Kiên trong tác phẩm. Bởi khi miêu tả nhân vật của mình, nhà văn Bảo Ninh cho ta thấy tâm trạng Kiên viết như trong cơn mộng du, xúc động tột đỉnh, kiệt quệ cả xác thân. Kiên trong quá trình sáng tạo như đang sống ở một thế giới khác với những nhân vật nối nhau giục giã, với những mảnh đời vá víu, với những kỷ niệm chắp nối và những con mưa thi thể dội xuống... đến mức Kiên không nhận ra được hình ảnh gần gũi, quen thuộc hàng ngày của cuộc sống đời thường. Cuộc đời mới có nghĩa của Kiên là những ký ức, kỷ niệm và ám ảnh. Tất cả là điều Kiên không muốn "tự nó chứ không phải tự Kiên. Tác phẩm tự nó cấu trúc nên thời gian của nó, tự định hướng chọn luồng và tự chọn lấy một bến bờ... Nói chung anh hết sức thụ động hầu như trở thành bất khả tri trước các trang viết của chình mình" (5, tr. 111). Kiên viết mê man, đắm đuối mà đối với Kiên đó là một món nợ mà anh phải trả. Mục đích sự nghiệp là "định hình trên giấy những giấc mơ quá khứ" (5, tr. 160). Đó là sự đồng hiện của "những đoạn đời khắc nghiệt, so le nhau hàng năm trời đã đột hiện cùng một lúc, đan xen, lồng vào nhau trên cùng một thời điểm của hồi tưởng " (5, tr. 240, 241). Cõi vô thức của Kiên là những điều Kiên không thể nghĩ là mình sẽ nhớ như hình ảnh của Hạnh. Chưa bao giờ Kiên nghĩ sẽ viết về kỷ niệm với Hạnh mà kỷ niệm ấy vẫn hiện diện trong sáng tác của anh. Tuổi thơ Kiên không nhớ rõ, không biết vui buồn khi cha mẹ chia tay cũng hiện diện và cả những con người tưởng như không thể nhớ cũng được lay tỉnh bởi ký ức. Đó là vùng ý thức hoặc tiền ý thức đã bị đẩy sâu vào vùng vô thức đến bây giờ lên tiếng gọi để Kiên tạo nên tác phẩm mình.

Tính hiện đại của tác phẩm "Thân phận của tình yêu" được thể hiện qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Kiên. Cụ thể hơn nữa là nhà văn đã khai thác triệt để đời sống nội tâm của nhân vật, những yếu tố tác động đến quá trình sáng tạo của nhân vật. Đề cập đến vô thức thúc đẩy hình thành quá trình sáng tạo là một điều mới mẻ. Từ Phân tâm học, ta hiểu được nhân vật Kiên, ta hiểu được những động lực từ bên ngoài tâm hồn của người nghệ sĩ khi sáng tác nghệ thuật. Đó là sự đóng góp không nhỏ của Bảo Ninh trong quá trình đổi mới nền văn học của nước ta.

Tuy nhiên, quá trình sáng tạo của nhà văn không phải chỉ là sự giải tỏa của những dồn nén. Sự giải toả không thể quyết định toàn bộ quá trình sáng tạo. Nếu cảm hứng chỉ là vô thức thì nó mang tính nhất thời, còn cảm hứng sáng tạo thật sự bao giờ cũng là kết quả của thai nghén lâu dài, suy tư, cấu tứ, tưởng tượng trước đó... Nói như Bôđơle: Cảm hứng là nghị lực, là sự phấn khởi mang tính chất trí tuệ và là khả năng nương giữ các sức mạnh trong trạng thái kích thích" [3, tr.211].
Vậy, nếu khai phá con người vô thức, tâm linh đồng hành với con người ý thức, tự chủ thì có lẽ nhân vật mà Bảo Ninh xây dựng vừa hiện đại lại vừa có sức thuyết phục và hơn nữa mới khẳng định sứ mệnh cao cả của nhà văn.
   T.T.H
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.

  • PHẠM PHÚ PHONG            Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau.                                                                                       Nguyễn Đình Thi

  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)

  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.