Từ phân tâm học tìm hiểu tính hiện đại thể hiện qua tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" của Bảo Ninh

15:12 02/03/2009
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

Nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa đã len lỏi và xuất hiện trong nhiều tác phẩm gần đây. Điều đó thể hiện qua một số tác phẩm, người đọc không chỉ thấy hình ảnh cụ thể của một xã hội, một dân tộc mà còn phát hiện ra hình ảnh của những con người xuất hiện trong nghệ thuật hiện đại. Đó là sự phát triển ý niệm tự do và phát huy tinh thần dân chủ ở con người, phát hiện con người vô thức, tâm linh.
Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tính hiện đại đó là "Thân phận của tình yêu" của tác giả Bảo Ninh.

Tác phẩm "Thân phận của tình yêu" lúc đầu có tên "Nỗi buồn chiến tranh" là một trong ba tiểu thuyết được giải của Hội Nhà văn Việt năm 1991. Đây là tác phẩm gây nhiều xôn xao trong làng văn và độc giả, khen cũng nhiều mà chê chẳng ít. Trong đó đã có các bài viết như "Giải thưởng Hội Nhà văn 1991 và tình hình văn học hiện nay - Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam" (Báo Văn nghệ số 38 ngày 21/9/1991); "Thảo luận về tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" (Văn nghệ số 37 ngày 14/9/1991); "Nghĩ gì khi đọc "Thân phận của tình yêu" của tác giả Đỗ Văn Khang (Văn nghệ số 13 ngày 26/10/1991) hay bài của Nguyễn Khắc Phê trên báo Văn nghệ số 44 ngày 02/11/1991). Nhìn chung, các bài báo và các ý kiến thảo luận đều đề cập đến góc độ tác giả, phương diện phản ánh hiện thực hoặc về chủ đề, về cấu trúc, về thi pháp... Có thể nêu một vài những nhận xét tiêu biểu như: Phạm Tiến Duật, Lê Quang Trang cho rằng: Toàn bộ tác phẩm là một bản sonat buồn, nỗi buồn cao thượng và trong trẻo làm nên cái gốc đúc cho tác phẩm. Nỗi buồn là cái lõi của tác phẩm.

Theo Bùi Việt Thắng nhận xét: tác phẩm có cấu trúc đặc biệt. Cấu trúc vòng tròn hay cấu trúc lồng giống như trò chơi Rubic. Nhiều tầng lớp (đa tuyến) nhưng lại mang dáng vẻ gọn nhẹ, linh hoạt...
Còn Đỗ Văn Khang :"Đây vẫn là một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời"...
Nhìn chung, dù có ý kiến trái ngược nhau nhưng các nhà phê bình đều chủ yếu đánh giá về nội dung, tư tưởng, tính hiện thực của tác phẩm. Riêng về mặt thi pháp, có tác giả Đỗ Đức Hiểu, Bùi Việt Thắng, Trần Đình Sử có ý kiến như sau: Bùi Việt Thắng cho rằng: Về phương diện thi phaëp, ký ức trong "Thân phận của tình yêu" rất đậm đặc (Tỷ lệ: quá khứ 3/hiện tại 1); Còn Trần Đình Sử nêu: Tác phẩm không có các nhân vật trọn vẹn theo lối truyền thống, nhân vật của Bảo Ninh là những mảnh đời, mẫu đời vụn nát, dang dở, chắp vá hợp lại thành "bản hoà tấu của những khuôn mặt và những cuộc đời thường" thành "tiếng rì rầm của cuộc đời thường"; Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong "thi pháp hiện đại" đã phân tích khá rõ về kết cấu, về thời gian, không gian và đặc biệt là "một hiện tượng ngôn từ lạ lùng, mang tính đa thanh, tính đối thoại... (l,tr.267).

Với bài viết này, người viết xin tìm hiểu về tính hiện đại trong tác phẩm qua việc tác giả xây dựng nhân vật Kiên. Có thể nói toàn bộ tác phẩm của Bảo Ninh đã phản ánh quá trình sáng tạo của nhà văn qua nhân vật này. Ta có thể nhận ra học thuyết Phân tâm học được biểu hiện rất cụ thể qua nhân vật nhà văn Kiên trong tác phẩm.
Theo Sigmund Freud (1865 - 1939) - Người sáng lập ra học thuyết Phân tâm học thì sáng tạo nghệ thuật là cái thay thế thoả mãn cho bản năng. Bản năng là một xung năng làm nên sự sống, sức năng động sáng tạo của con người không thể dập tắt. Song, nó luôn bị các thể chế xã hội như phong tục, dư luận, pháp luật... hạn chế, ngăn cấm. Để giải phóng, thoả mãn ham muốn bị dồn nén đó, con người sáng tạo văn học nghệ thuật- Đó là sự thăng hoa. Với Freud, nhà văn khai thác thế giới ham muốn đầy bí ẩn trong tiềm thức và vô thức, trong đáy tối mờ của tâm hồn con người và biểu hiện nó bằng ngôn từ nghệ thuật. Cụ thể là nhà văn mượn cái vô thức để sáng tác. Mà vô thức là một quá trình dồn nén của những thúc đẩy bản năng đã bị chôn vùi, là tất cả những kinh nghiệm đau đớn của tuổi thơ (dù những kinh nghiệm này đã bị lãng quên từ lâu hay chính bản thân người nghệ sĩ cũng không ý thức được) và trong vô thức còn lắng đọng những dấu vết của đời sống riêng tư ở mỗi người. Tất cả những quá khứ bị dồn ép, chứa đầy những cảm xúc đau đớn, thay vì tan biến mất đi theo thời gian thì nó vẫn tồn tại để chi phối con người và con người khó kiểm soát được nó. Sự giải toả được bộc lộ ở những hành động kỳ quặc, những giấc mơ hay những biểu tượng ám ảnh...

Tác giả Bảo Ninh đã xây dựng một nhà văn Kiên như thế trong tác phẩm của mình. Có thể khái quát quá trình trở thành nhà văn của nhân vật bằng một câu trong tác phẩm như sau:
"... Mất mẹ từ tấm bé
Không cha từ ấu thơ,
Đứa trẻ chẳng mồ côi
Lớn lên cùng thành phố
Trải qua thời chiến tranh...
Đứa trẻ chẳng mồ côi..."
(5, tr 168)
Nếu sắp xếp theo thứ tự về cuộc đời của nhân vật Kiên trong tác phẩm ta sẽ thấy được cả bốn mươi năm đời anh là một quá trình bị dồn nén liên tục với những kỷ niệm đau buồn của tuổi thơ, những dục vọng bị kìm nén và cuộc chiến tranh đầy đau thương, mất mát... Điều đó khiến cho Kiên luôn tự nhủ "phải viết thôi". "Viết để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi..." (5, tr.198). Có thể nói, thế giới vô thức đã ngự trị hoàn toàn ở nhân vật này trong suốt quá trình sáng tạo.

Chấn thương từ thời ấu thơ của Kiên được đẩy vào vùng vô thức "Anh chẳng nhớ gì mấy nữa về tấn bi kịch gia đình, không biết vì sao cha mẹ lại chia tay , không biết rằng cha mẹ đã đau khổ như thế nào" (5, tr. 72, 73). Chỉ còn trong ấn tượng của tuổi thơ là nỗi sợ hãi khi chứng kiến cha mình ngồi đốt tất cả sự nghiệp của ông. Sau mười năm đi biệt mà nỗi sợ vẫn đeo đuổi. Có thể chấn thương thời ấu thơ đã đeo đuổi mãi trong đời Kiên. Theo Freud, sự dồn ép và sự kháng cự là nguồn gốc của những mặc cảm. Sự dồn ép có được do những xúc cảm đau đớn gắn liền với những khao khát tình yêu thương của cha mẹ mà Kiên không thể có "mọi tình cảm như thể bị nuốt đi đâu cả, chỉ làm cho lòng anh thêm mặc cảm về sự què quặt hiển nhiên của tâm hồn mình. Còn hơn là một khuyết tật, trong Kiên rõ ràng là có mầm bẩm sinh của độc ác, của thói nhẫn tâm, khô rắn, lạnh lùng. Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt. Một lương tri không lành. Có lẽ anh lớn lên với chỉ nhiều nhất là một phần hai nhân cách" (5, tr.162, 163). Tâm trạng của Kiên, những suy nghĩ của Kiên biểu hiện sự hình thành nhân cách con người theo Phân tâm học. Từ bầu không khí nặng nề, chia cắt của gia đình đã không đáp ứng nhu cầu cần được yêu thương của Kiên trong thời thơ ấu - Điều đó đã tạo cho nhân vật méo mó về nhân cách.

Những diễn biến tác động mạnh nhất đối với Kiên là tuổi mười bảy. Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật được tác giả xây dựng ở lứa tuổi này. Theo học thuyết Phân tâm học, đây được gọi là thời kỳ sinh dục. Thời kỳ mà ở mỗi đứa trẻ có những biến đổi sâu sắc về sinh lý, thời kỳ có ý nghĩa đối với cuộc sống tinh thần của trẻ sau này. Tình yêu đến với Kiên trong thời kỳ đó.
Người phụ nữ đầu tiên khơi dậy trong Kiên những bản năng giới tính là Hạnh, người mà Kiên gọi là chị. "Toàn thân đột ngột sững sờ như thể điện giật, cứng lại trong một nỗi tê dại mà trong đời cậu cho đến khi đó chưa từng cảm thấy bao giờ" (5,tr.82). Cái khát vọng ấy không được thoả mãn khiến Kiên luôn chờ đợi, chờ đợi cái điều Hạnh định nói nhưng không nói bao giờ. Và rồi đến khi yêu Phương, tình yêu giữa Kiên và Phương trở thành cái tội lớn vì nó khiến các thầy nổi giận, chi đoàn phẫn nộ, và tự bản thân họ thấy quá đáng. Bản năng thì thôi thúc nhưng trong Kiên luôn vang lên một lời nhắc nhở: Khoan yêu! Tiếng kêu bản năng tự đáy lòng đã được thức tỉnh "anh không được, anh không thể" (5. tr.177). Ngay mỗi lần gần Phương, dù cho tình cảm có tha thiết thì Kiên vẫn không dám. Theo Freud, tinh thần con người bị chi phối bởi hai cơ chế: đó là nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại. Nguyên tắc khoái lạc là bản năng đòi hỏi sự thoả mãn, nhưng tất cả những mong muốn đó còn chịu sự chi phối của thực tại. Nếu không có sự thoả hiệp của hai nguyên tắc này sẽ tạo ra sự ức chế tinh thần.

Với Kiên, ở cái tuổi mười bảy, cái đêm cùng Phương trên toa tàu "những cơn rạo rực như thể một lưỡi dao chỉ tuốt khỏi vỏ được nửa chừng đã bị chững lại...(5,tr.249). Ấn tượng sâu đậm và đớn đau nhất đối với Kiên cũng chính đêm đó khi Phương đã bị kẻ khác chiếm đoạt. Sự dồn nén của ngày đầu bước vào cuộc chiến làm cho Kiên ngập tràn mộng mị, những giấc mơ lay thức tâm hồn. "Những giấc mơ đậm đặc cảm giác, nóng bỏng ngọt vị như mật ứa ra trào lấp đầy cõi mộng mị" (5. tr. 37). Những giấc mơ tình yêu luôn hiện về giữa những cái chết, giữa tai hoạ, đau khổ và trong giấc mơ ấy "Phương thực sự đã hoá thành ám ảnh" (5, tr. 185). Hàng đêm, khi cánh trinh sát giấu anh rời khỏi lán để đến với người tình thì Kiên tự giải toả mình "Bằng những giấc mộng yêu đương mờ ảo bóng hình Phương, thấm thía ân ái" (5, tr.185). Trong tác phẩm, mười bốn lần nhà văn nói về những giấc mộng của Kiên: mộng trong chiến tranh, mộng giữa đời thực, mộng trong lúc chiến đấu và mộng trong hoà bình. Vì Phương mãi mãi không thuộc về Kiên, mãi mãi chỉ là niềm khát khao hoài vọng. Hình ảnh của Phương với tình yêu trong trắng, hồn nhiên đã chết, đã chết cùng bao ước mơ dở dang, cay đắng. Để rồi "hàng đêm anh miệt mài mê mẩn chìm trong cái vuốt ve vô tận của mộng mị" (5, tr. 218, 219) và "những sự kiện, những hình ảnh chẳng liên gì tới Phương thế mà nhờ nàng anh đã liên tưởng đến". Cơ chế đó trong Phân tâm học gọi là sự chuyển di. Nhân vật Kiên không chỉ sống trong mộng mị mà còn đắm chìm trong ký ức. Hơn mười lần nhà văn lặp đi lăp lại từ "ám ảnh". Đó chính là lý do khiến Kiên trở thành nhà văn. Đối với Kiên, việc viết văn đó là thiên mệnh "chính bởi thiên mệnh ấy mà anh đã có một tuổi thơ như thế, một tuổi hoa niên, một thời chiến trận như thế..." (5, tr. 64). Quá trình sáng tạo của nhân vật Kiên là quá trình thăng hoa của những ức chế bị dồn nén. Trong ý thức thì Kiên muốn viết về cộng đồng, những con người kỳ thú của hiện đại, văn của những người đương thời viết về chiến tranh anh không xem, còn tác phẩm của Kiên dự định một đằng thì hình thành một nẻo... Công việc viết văn của Kiên không tuân theo ý chí mà ngòi bút Kiên đang viết trong mộng mị nhờ vào phép liên tưởng nhiệm màu của hồi ức. Những dồn nén, kỷ niệm đớn đau... Kiên đã nhủ lòng phải quên nhưng bỗng như nó bừng sống dậy dưới ngòi bút của anh. Được viết, được giải toả đối với Kiên là sự cứu rỗi, là niềm hạnh phúc. Mà Phương là nguyên nhân "nếu không gặp Phương anh đã không viết văn" (5, tr. 280).

Nói về quá trình vô thức trong sáng tạo, ý kiến của J.Bellemin - Noel: "Việc phân tích quá trình vô thức có thiên hướng can thiệp ở nơi nào có "trí tưởng tượng" hoạt động, có nghĩa là những xúc động, một tác phẩm hư cấu thậm chí rộng hơn là một tác phẩm miêu tả và những hiệu quả tượng trưng" (2, tr. 87). Ý kiến này giúp ta hiểu thêm về nhân vật Kiên trong tác phẩm. Bởi khi miêu tả nhân vật của mình, nhà văn Bảo Ninh cho ta thấy tâm trạng Kiên viết như trong cơn mộng du, xúc động tột đỉnh, kiệt quệ cả xác thân. Kiên trong quá trình sáng tạo như đang sống ở một thế giới khác với những nhân vật nối nhau giục giã, với những mảnh đời vá víu, với những kỷ niệm chắp nối và những con mưa thi thể dội xuống... đến mức Kiên không nhận ra được hình ảnh gần gũi, quen thuộc hàng ngày của cuộc sống đời thường. Cuộc đời mới có nghĩa của Kiên là những ký ức, kỷ niệm và ám ảnh. Tất cả là điều Kiên không muốn "tự nó chứ không phải tự Kiên. Tác phẩm tự nó cấu trúc nên thời gian của nó, tự định hướng chọn luồng và tự chọn lấy một bến bờ... Nói chung anh hết sức thụ động hầu như trở thành bất khả tri trước các trang viết của chình mình" (5, tr. 111). Kiên viết mê man, đắm đuối mà đối với Kiên đó là một món nợ mà anh phải trả. Mục đích sự nghiệp là "định hình trên giấy những giấc mơ quá khứ" (5, tr. 160). Đó là sự đồng hiện của "những đoạn đời khắc nghiệt, so le nhau hàng năm trời đã đột hiện cùng một lúc, đan xen, lồng vào nhau trên cùng một thời điểm của hồi tưởng " (5, tr. 240, 241). Cõi vô thức của Kiên là những điều Kiên không thể nghĩ là mình sẽ nhớ như hình ảnh của Hạnh. Chưa bao giờ Kiên nghĩ sẽ viết về kỷ niệm với Hạnh mà kỷ niệm ấy vẫn hiện diện trong sáng tác của anh. Tuổi thơ Kiên không nhớ rõ, không biết vui buồn khi cha mẹ chia tay cũng hiện diện và cả những con người tưởng như không thể nhớ cũng được lay tỉnh bởi ký ức. Đó là vùng ý thức hoặc tiền ý thức đã bị đẩy sâu vào vùng vô thức đến bây giờ lên tiếng gọi để Kiên tạo nên tác phẩm mình.

Tính hiện đại của tác phẩm "Thân phận của tình yêu" được thể hiện qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Kiên. Cụ thể hơn nữa là nhà văn đã khai thác triệt để đời sống nội tâm của nhân vật, những yếu tố tác động đến quá trình sáng tạo của nhân vật. Đề cập đến vô thức thúc đẩy hình thành quá trình sáng tạo là một điều mới mẻ. Từ Phân tâm học, ta hiểu được nhân vật Kiên, ta hiểu được những động lực từ bên ngoài tâm hồn của người nghệ sĩ khi sáng tác nghệ thuật. Đó là sự đóng góp không nhỏ của Bảo Ninh trong quá trình đổi mới nền văn học của nước ta.

Tuy nhiên, quá trình sáng tạo của nhà văn không phải chỉ là sự giải tỏa của những dồn nén. Sự giải toả không thể quyết định toàn bộ quá trình sáng tạo. Nếu cảm hứng chỉ là vô thức thì nó mang tính nhất thời, còn cảm hứng sáng tạo thật sự bao giờ cũng là kết quả của thai nghén lâu dài, suy tư, cấu tứ, tưởng tượng trước đó... Nói như Bôđơle: Cảm hứng là nghị lực, là sự phấn khởi mang tính chất trí tuệ và là khả năng nương giữ các sức mạnh trong trạng thái kích thích" [3, tr.211].
Vậy, nếu khai phá con người vô thức, tâm linh đồng hành với con người ý thức, tự chủ thì có lẽ nhân vật mà Bảo Ninh xây dựng vừa hiện đại lại vừa có sức thuyết phục và hơn nữa mới khẳng định sứ mệnh cao cả của nhà văn.
   T.T.H
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).