Từ phân tâm học tìm hiểu tính hiện đại thể hiện qua tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" của Bảo Ninh

15:12 02/03/2009
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

Nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa đã len lỏi và xuất hiện trong nhiều tác phẩm gần đây. Điều đó thể hiện qua một số tác phẩm, người đọc không chỉ thấy hình ảnh cụ thể của một xã hội, một dân tộc mà còn phát hiện ra hình ảnh của những con người xuất hiện trong nghệ thuật hiện đại. Đó là sự phát triển ý niệm tự do và phát huy tinh thần dân chủ ở con người, phát hiện con người vô thức, tâm linh.
Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tính hiện đại đó là "Thân phận của tình yêu" của tác giả Bảo Ninh.

Tác phẩm "Thân phận của tình yêu" lúc đầu có tên "Nỗi buồn chiến tranh" là một trong ba tiểu thuyết được giải của Hội Nhà văn Việt năm 1991. Đây là tác phẩm gây nhiều xôn xao trong làng văn và độc giả, khen cũng nhiều mà chê chẳng ít. Trong đó đã có các bài viết như "Giải thưởng Hội Nhà văn 1991 và tình hình văn học hiện nay - Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam" (Báo Văn nghệ số 38 ngày 21/9/1991); "Thảo luận về tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" (Văn nghệ số 37 ngày 14/9/1991); "Nghĩ gì khi đọc "Thân phận của tình yêu" của tác giả Đỗ Văn Khang (Văn nghệ số 13 ngày 26/10/1991) hay bài của Nguyễn Khắc Phê trên báo Văn nghệ số 44 ngày 02/11/1991). Nhìn chung, các bài báo và các ý kiến thảo luận đều đề cập đến góc độ tác giả, phương diện phản ánh hiện thực hoặc về chủ đề, về cấu trúc, về thi pháp... Có thể nêu một vài những nhận xét tiêu biểu như: Phạm Tiến Duật, Lê Quang Trang cho rằng: Toàn bộ tác phẩm là một bản sonat buồn, nỗi buồn cao thượng và trong trẻo làm nên cái gốc đúc cho tác phẩm. Nỗi buồn là cái lõi của tác phẩm.

Theo Bùi Việt Thắng nhận xét: tác phẩm có cấu trúc đặc biệt. Cấu trúc vòng tròn hay cấu trúc lồng giống như trò chơi Rubic. Nhiều tầng lớp (đa tuyến) nhưng lại mang dáng vẻ gọn nhẹ, linh hoạt...
Còn Đỗ Văn Khang :"Đây vẫn là một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời"...
Nhìn chung, dù có ý kiến trái ngược nhau nhưng các nhà phê bình đều chủ yếu đánh giá về nội dung, tư tưởng, tính hiện thực của tác phẩm. Riêng về mặt thi pháp, có tác giả Đỗ Đức Hiểu, Bùi Việt Thắng, Trần Đình Sử có ý kiến như sau: Bùi Việt Thắng cho rằng: Về phương diện thi phaëp, ký ức trong "Thân phận của tình yêu" rất đậm đặc (Tỷ lệ: quá khứ 3/hiện tại 1); Còn Trần Đình Sử nêu: Tác phẩm không có các nhân vật trọn vẹn theo lối truyền thống, nhân vật của Bảo Ninh là những mảnh đời, mẫu đời vụn nát, dang dở, chắp vá hợp lại thành "bản hoà tấu của những khuôn mặt và những cuộc đời thường" thành "tiếng rì rầm của cuộc đời thường"; Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong "thi pháp hiện đại" đã phân tích khá rõ về kết cấu, về thời gian, không gian và đặc biệt là "một hiện tượng ngôn từ lạ lùng, mang tính đa thanh, tính đối thoại... (l,tr.267).

Với bài viết này, người viết xin tìm hiểu về tính hiện đại trong tác phẩm qua việc tác giả xây dựng nhân vật Kiên. Có thể nói toàn bộ tác phẩm của Bảo Ninh đã phản ánh quá trình sáng tạo của nhà văn qua nhân vật này. Ta có thể nhận ra học thuyết Phân tâm học được biểu hiện rất cụ thể qua nhân vật nhà văn Kiên trong tác phẩm.
Theo Sigmund Freud (1865 - 1939) - Người sáng lập ra học thuyết Phân tâm học thì sáng tạo nghệ thuật là cái thay thế thoả mãn cho bản năng. Bản năng là một xung năng làm nên sự sống, sức năng động sáng tạo của con người không thể dập tắt. Song, nó luôn bị các thể chế xã hội như phong tục, dư luận, pháp luật... hạn chế, ngăn cấm. Để giải phóng, thoả mãn ham muốn bị dồn nén đó, con người sáng tạo văn học nghệ thuật- Đó là sự thăng hoa. Với Freud, nhà văn khai thác thế giới ham muốn đầy bí ẩn trong tiềm thức và vô thức, trong đáy tối mờ của tâm hồn con người và biểu hiện nó bằng ngôn từ nghệ thuật. Cụ thể là nhà văn mượn cái vô thức để sáng tác. Mà vô thức là một quá trình dồn nén của những thúc đẩy bản năng đã bị chôn vùi, là tất cả những kinh nghiệm đau đớn của tuổi thơ (dù những kinh nghiệm này đã bị lãng quên từ lâu hay chính bản thân người nghệ sĩ cũng không ý thức được) và trong vô thức còn lắng đọng những dấu vết của đời sống riêng tư ở mỗi người. Tất cả những quá khứ bị dồn ép, chứa đầy những cảm xúc đau đớn, thay vì tan biến mất đi theo thời gian thì nó vẫn tồn tại để chi phối con người và con người khó kiểm soát được nó. Sự giải toả được bộc lộ ở những hành động kỳ quặc, những giấc mơ hay những biểu tượng ám ảnh...

Tác giả Bảo Ninh đã xây dựng một nhà văn Kiên như thế trong tác phẩm của mình. Có thể khái quát quá trình trở thành nhà văn của nhân vật bằng một câu trong tác phẩm như sau:
"... Mất mẹ từ tấm bé
Không cha từ ấu thơ,
Đứa trẻ chẳng mồ côi
Lớn lên cùng thành phố
Trải qua thời chiến tranh...
Đứa trẻ chẳng mồ côi..."
(5, tr 168)
Nếu sắp xếp theo thứ tự về cuộc đời của nhân vật Kiên trong tác phẩm ta sẽ thấy được cả bốn mươi năm đời anh là một quá trình bị dồn nén liên tục với những kỷ niệm đau buồn của tuổi thơ, những dục vọng bị kìm nén và cuộc chiến tranh đầy đau thương, mất mát... Điều đó khiến cho Kiên luôn tự nhủ "phải viết thôi". "Viết để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi..." (5, tr.198). Có thể nói, thế giới vô thức đã ngự trị hoàn toàn ở nhân vật này trong suốt quá trình sáng tạo.

Chấn thương từ thời ấu thơ của Kiên được đẩy vào vùng vô thức "Anh chẳng nhớ gì mấy nữa về tấn bi kịch gia đình, không biết vì sao cha mẹ lại chia tay , không biết rằng cha mẹ đã đau khổ như thế nào" (5, tr. 72, 73). Chỉ còn trong ấn tượng của tuổi thơ là nỗi sợ hãi khi chứng kiến cha mình ngồi đốt tất cả sự nghiệp của ông. Sau mười năm đi biệt mà nỗi sợ vẫn đeo đuổi. Có thể chấn thương thời ấu thơ đã đeo đuổi mãi trong đời Kiên. Theo Freud, sự dồn ép và sự kháng cự là nguồn gốc của những mặc cảm. Sự dồn ép có được do những xúc cảm đau đớn gắn liền với những khao khát tình yêu thương của cha mẹ mà Kiên không thể có "mọi tình cảm như thể bị nuốt đi đâu cả, chỉ làm cho lòng anh thêm mặc cảm về sự què quặt hiển nhiên của tâm hồn mình. Còn hơn là một khuyết tật, trong Kiên rõ ràng là có mầm bẩm sinh của độc ác, của thói nhẫn tâm, khô rắn, lạnh lùng. Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt. Một lương tri không lành. Có lẽ anh lớn lên với chỉ nhiều nhất là một phần hai nhân cách" (5, tr.162, 163). Tâm trạng của Kiên, những suy nghĩ của Kiên biểu hiện sự hình thành nhân cách con người theo Phân tâm học. Từ bầu không khí nặng nề, chia cắt của gia đình đã không đáp ứng nhu cầu cần được yêu thương của Kiên trong thời thơ ấu - Điều đó đã tạo cho nhân vật méo mó về nhân cách.

Những diễn biến tác động mạnh nhất đối với Kiên là tuổi mười bảy. Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật được tác giả xây dựng ở lứa tuổi này. Theo học thuyết Phân tâm học, đây được gọi là thời kỳ sinh dục. Thời kỳ mà ở mỗi đứa trẻ có những biến đổi sâu sắc về sinh lý, thời kỳ có ý nghĩa đối với cuộc sống tinh thần của trẻ sau này. Tình yêu đến với Kiên trong thời kỳ đó.
Người phụ nữ đầu tiên khơi dậy trong Kiên những bản năng giới tính là Hạnh, người mà Kiên gọi là chị. "Toàn thân đột ngột sững sờ như thể điện giật, cứng lại trong một nỗi tê dại mà trong đời cậu cho đến khi đó chưa từng cảm thấy bao giờ" (5,tr.82). Cái khát vọng ấy không được thoả mãn khiến Kiên luôn chờ đợi, chờ đợi cái điều Hạnh định nói nhưng không nói bao giờ. Và rồi đến khi yêu Phương, tình yêu giữa Kiên và Phương trở thành cái tội lớn vì nó khiến các thầy nổi giận, chi đoàn phẫn nộ, và tự bản thân họ thấy quá đáng. Bản năng thì thôi thúc nhưng trong Kiên luôn vang lên một lời nhắc nhở: Khoan yêu! Tiếng kêu bản năng tự đáy lòng đã được thức tỉnh "anh không được, anh không thể" (5. tr.177). Ngay mỗi lần gần Phương, dù cho tình cảm có tha thiết thì Kiên vẫn không dám. Theo Freud, tinh thần con người bị chi phối bởi hai cơ chế: đó là nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại. Nguyên tắc khoái lạc là bản năng đòi hỏi sự thoả mãn, nhưng tất cả những mong muốn đó còn chịu sự chi phối của thực tại. Nếu không có sự thoả hiệp của hai nguyên tắc này sẽ tạo ra sự ức chế tinh thần.

Với Kiên, ở cái tuổi mười bảy, cái đêm cùng Phương trên toa tàu "những cơn rạo rực như thể một lưỡi dao chỉ tuốt khỏi vỏ được nửa chừng đã bị chững lại...(5,tr.249). Ấn tượng sâu đậm và đớn đau nhất đối với Kiên cũng chính đêm đó khi Phương đã bị kẻ khác chiếm đoạt. Sự dồn nén của ngày đầu bước vào cuộc chiến làm cho Kiên ngập tràn mộng mị, những giấc mơ lay thức tâm hồn. "Những giấc mơ đậm đặc cảm giác, nóng bỏng ngọt vị như mật ứa ra trào lấp đầy cõi mộng mị" (5. tr. 37). Những giấc mơ tình yêu luôn hiện về giữa những cái chết, giữa tai hoạ, đau khổ và trong giấc mơ ấy "Phương thực sự đã hoá thành ám ảnh" (5, tr. 185). Hàng đêm, khi cánh trinh sát giấu anh rời khỏi lán để đến với người tình thì Kiên tự giải toả mình "Bằng những giấc mộng yêu đương mờ ảo bóng hình Phương, thấm thía ân ái" (5, tr.185). Trong tác phẩm, mười bốn lần nhà văn nói về những giấc mộng của Kiên: mộng trong chiến tranh, mộng giữa đời thực, mộng trong lúc chiến đấu và mộng trong hoà bình. Vì Phương mãi mãi không thuộc về Kiên, mãi mãi chỉ là niềm khát khao hoài vọng. Hình ảnh của Phương với tình yêu trong trắng, hồn nhiên đã chết, đã chết cùng bao ước mơ dở dang, cay đắng. Để rồi "hàng đêm anh miệt mài mê mẩn chìm trong cái vuốt ve vô tận của mộng mị" (5, tr. 218, 219) và "những sự kiện, những hình ảnh chẳng liên gì tới Phương thế mà nhờ nàng anh đã liên tưởng đến". Cơ chế đó trong Phân tâm học gọi là sự chuyển di. Nhân vật Kiên không chỉ sống trong mộng mị mà còn đắm chìm trong ký ức. Hơn mười lần nhà văn lặp đi lăp lại từ "ám ảnh". Đó chính là lý do khiến Kiên trở thành nhà văn. Đối với Kiên, việc viết văn đó là thiên mệnh "chính bởi thiên mệnh ấy mà anh đã có một tuổi thơ như thế, một tuổi hoa niên, một thời chiến trận như thế..." (5, tr. 64). Quá trình sáng tạo của nhân vật Kiên là quá trình thăng hoa của những ức chế bị dồn nén. Trong ý thức thì Kiên muốn viết về cộng đồng, những con người kỳ thú của hiện đại, văn của những người đương thời viết về chiến tranh anh không xem, còn tác phẩm của Kiên dự định một đằng thì hình thành một nẻo... Công việc viết văn của Kiên không tuân theo ý chí mà ngòi bút Kiên đang viết trong mộng mị nhờ vào phép liên tưởng nhiệm màu của hồi ức. Những dồn nén, kỷ niệm đớn đau... Kiên đã nhủ lòng phải quên nhưng bỗng như nó bừng sống dậy dưới ngòi bút của anh. Được viết, được giải toả đối với Kiên là sự cứu rỗi, là niềm hạnh phúc. Mà Phương là nguyên nhân "nếu không gặp Phương anh đã không viết văn" (5, tr. 280).

Nói về quá trình vô thức trong sáng tạo, ý kiến của J.Bellemin - Noel: "Việc phân tích quá trình vô thức có thiên hướng can thiệp ở nơi nào có "trí tưởng tượng" hoạt động, có nghĩa là những xúc động, một tác phẩm hư cấu thậm chí rộng hơn là một tác phẩm miêu tả và những hiệu quả tượng trưng" (2, tr. 87). Ý kiến này giúp ta hiểu thêm về nhân vật Kiên trong tác phẩm. Bởi khi miêu tả nhân vật của mình, nhà văn Bảo Ninh cho ta thấy tâm trạng Kiên viết như trong cơn mộng du, xúc động tột đỉnh, kiệt quệ cả xác thân. Kiên trong quá trình sáng tạo như đang sống ở một thế giới khác với những nhân vật nối nhau giục giã, với những mảnh đời vá víu, với những kỷ niệm chắp nối và những con mưa thi thể dội xuống... đến mức Kiên không nhận ra được hình ảnh gần gũi, quen thuộc hàng ngày của cuộc sống đời thường. Cuộc đời mới có nghĩa của Kiên là những ký ức, kỷ niệm và ám ảnh. Tất cả là điều Kiên không muốn "tự nó chứ không phải tự Kiên. Tác phẩm tự nó cấu trúc nên thời gian của nó, tự định hướng chọn luồng và tự chọn lấy một bến bờ... Nói chung anh hết sức thụ động hầu như trở thành bất khả tri trước các trang viết của chình mình" (5, tr. 111). Kiên viết mê man, đắm đuối mà đối với Kiên đó là một món nợ mà anh phải trả. Mục đích sự nghiệp là "định hình trên giấy những giấc mơ quá khứ" (5, tr. 160). Đó là sự đồng hiện của "những đoạn đời khắc nghiệt, so le nhau hàng năm trời đã đột hiện cùng một lúc, đan xen, lồng vào nhau trên cùng một thời điểm của hồi tưởng " (5, tr. 240, 241). Cõi vô thức của Kiên là những điều Kiên không thể nghĩ là mình sẽ nhớ như hình ảnh của Hạnh. Chưa bao giờ Kiên nghĩ sẽ viết về kỷ niệm với Hạnh mà kỷ niệm ấy vẫn hiện diện trong sáng tác của anh. Tuổi thơ Kiên không nhớ rõ, không biết vui buồn khi cha mẹ chia tay cũng hiện diện và cả những con người tưởng như không thể nhớ cũng được lay tỉnh bởi ký ức. Đó là vùng ý thức hoặc tiền ý thức đã bị đẩy sâu vào vùng vô thức đến bây giờ lên tiếng gọi để Kiên tạo nên tác phẩm mình.

Tính hiện đại của tác phẩm "Thân phận của tình yêu" được thể hiện qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Kiên. Cụ thể hơn nữa là nhà văn đã khai thác triệt để đời sống nội tâm của nhân vật, những yếu tố tác động đến quá trình sáng tạo của nhân vật. Đề cập đến vô thức thúc đẩy hình thành quá trình sáng tạo là một điều mới mẻ. Từ Phân tâm học, ta hiểu được nhân vật Kiên, ta hiểu được những động lực từ bên ngoài tâm hồn của người nghệ sĩ khi sáng tác nghệ thuật. Đó là sự đóng góp không nhỏ của Bảo Ninh trong quá trình đổi mới nền văn học của nước ta.

Tuy nhiên, quá trình sáng tạo của nhà văn không phải chỉ là sự giải tỏa của những dồn nén. Sự giải toả không thể quyết định toàn bộ quá trình sáng tạo. Nếu cảm hứng chỉ là vô thức thì nó mang tính nhất thời, còn cảm hứng sáng tạo thật sự bao giờ cũng là kết quả của thai nghén lâu dài, suy tư, cấu tứ, tưởng tượng trước đó... Nói như Bôđơle: Cảm hứng là nghị lực, là sự phấn khởi mang tính chất trí tuệ và là khả năng nương giữ các sức mạnh trong trạng thái kích thích" [3, tr.211].
Vậy, nếu khai phá con người vô thức, tâm linh đồng hành với con người ý thức, tự chủ thì có lẽ nhân vật mà Bảo Ninh xây dựng vừa hiện đại lại vừa có sức thuyết phục và hơn nữa mới khẳng định sứ mệnh cao cả của nhà văn.
   T.T.H
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H