THƠM QUANG - THANH BIÊN
Trong khối tài liệu hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV có khá nhiều tư liệu liên quan đến trường Bách Công xưa (tức trường Cao đẳng Công nghiệp Huế ngày nay). Bên cạnh tài liệu tiếng Pháp thuộc phông Tòa Khâm sứ Trung kỳ, chúng tôi cũng xin được cung cấp thêm một số thông tin quan trọng về trường Bách Công xưa được ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn.
Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế hiện nay
Đại Nam thực lục là bộ sử lớn, do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, gồm hai phần tiền biên và chính biên, ghi chép các sự kiện xảy ra dưới triều Nguyễn qua 9 đời chúa và 13 đời vua. Từ bộ Đại Nam thực lục tiền biên đến bộ Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ hiện vẫn còn ván khắc và đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Tuy nhiên,bộ Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ tục biên vì chiến tranh xảy ra nên chưa kịp khắc in. Còn bộ Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ hiện chỉ còn 26 mặt khắc đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Bản chép tay của hai bộ sử trên được tìm thấy ở bên Pháp và được nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu. Trong hai bộ sử này có rất nhiều chi tiết ghi chép về trường Bách Công xưa.
Trường Bách Công (tên tiếng Pháp là École Confessionelle de Huế), được thành lập vào tháng 10, năm Kỷ Hợi (1889), dưới triều vua Thành Thái thứ 11. Điều 0931, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ tục biên, quyển 11 có ghi chép về sự kiện này như sau: “Bắt đầu đặt Trường Bách công ở kinh thành. Khâm sứ đại thần Boulloche bàn nói hiện nay việc xây dựng ngày càng gấp rút, cần nhiều loại thợ, nên lập một trường học tập kỹ nghệ để ngày sau gặp việc ứng biện có người mà dùng. Cơ Mật Viện tâu lên, chuẩn ban dụ cho thi hành (chuẩn cho nha môn Vũ khố trích tiền công xây một trường học trong kinh thành, gọi là Trường Bách Công (dạy các nghề thợ sắt, thợ mộc, thợ rèn)”.
Khi mới thành lập, trường Bách Công có khoảng 200 học trò theo học, mỗi tháng được cấp học bổng 3 đồng. Giáo sư dạy học chỉ dạy kỹ nghệ mà không dạy văn chương, chữ nghĩa. Các quy định trong trường Bách Công xưa cũng rất nghiêm ngặt. Học trò nếu ai lười biếng học hành hoặc bị tố cáo việc khác thì đuổi học; ai phạm lỗi thì do quan coi trường khiển trách, giám thị trừng phạt. Đến kỳ thi tay nghề, nếu ai dự hạng trúng cách thì được cấp một sổ thợ, một tấm bằng. Sau khi học nghề xong thi đỗ ra trường nếu muốn vào làm công trong Sở Đốc công hoặc theo các sở tư nhân làm việc đều cho tùy ý.
Tháng 3, năm Canh Tý (1900), vua Thành Thái cho thân định điều khoản về trường Bách Công. Điều 0963, quyển 12, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ tục biên có chép: “Thân định điều khoản về Trường Bách công(nguyên nhân số trong trường Bách Công có Trợ giáo 13 người, công nhân 151 người, học trò 72 người, học bổng mỗi tháng tổng cộng 897 đồng, lại trích giản binh 100 người sung dịch. Đến lúc ấy giảm bớt chính binh giản binh, giao cho viên Quản giáo trường ấy chọn lấy lính thợ khéo léo 28 người giữ lại trong trường để đủ người dạy dỗ. Học trò nguyên số 72 người, nay thêm 28 người cho đủ 100. Phàm học trò vào trường tròn một tháng phải do họ tự nguyện ghi tên vào sổ của trường học tập ba năm, sau khi học thành hoặc cho điền bổ chỗ khuyết, hoặc về nhà lập xưởng riêng, hoặc muốn làm công cho tư nhân cũng đều cho phép. Còn số người và lương tháng thì thợ vẽ và kiểm tra máy móc đều 1 người, lương tháng đều 20 đồng, thợ cưa gỗ 1 người lương tháng 30 đồng, Trợ giáo 10 người lương tháng đều 6 đồng, học trò 100 người lương tháng 3 đồng hoặc 2 đồng, lương chi cộng 640 đồng, ít hơn nguyên số 257 đồng)”.
Tháng 4, năm Đinh Mùi (1907), nhằm nâng cao ngành nghề cho các học viên, vua Thành Thái đã chuẩn cho mở rộng thêm học quy trường Bách Công. Ban đầu, Khâm sứ đại thần Levecque bàn nói trường Bách Công lúc đầu chỉ lập ra để chuyên dạy kỹ nghệ, đến nay trường ấy trở thành một sở ứng dịch, tuy những người có tay nghề cũng có thể làm việc máy móc nhưng hiện nay xe lửa tàu máy cùng các xưởng máy móc càng ngày càng nhiều, nghĩ nên tu chỉnh mở rộng, dạy thêm kỹ nghệ bách công để về sau giỏi nghề chuyển đi nơi khác dạy khắp cho quốc dân, nghĩ cũng có ích. Bèn sai Thượng thư bộ Công sung Cơ mật viện đại thần Nguyễn Hữu Bài sung làm hội viên hội đồng với Khâm sứ đại thần và các quan Pháp bàn bạc tiến hành.
Dưới triều vua Khải Định, trường Bách Công có một nhiệm vụ đặc biệt là đúc tiền cho Nhà nước, trong sách Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ, quyển 4 điều 051 có khắc lại sự việc đó là vào ngày 1 tháng 7 năm Kỷ Mùi (1919), khi có buổi thiết triều, vua Khải Định lo lắng vì thiếu tiền. Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Hữu Bài đã tâu vua: Hiện trường Bách Công đang đúc”. Năm Tân Dậu (1921), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn đã cho bãi bỏ Chú tiền cục ở Kinh, vốn được dựng lò ở trường Bách Công trong thành, những đồng kẽm thiếc còn thừa cùng vật dùng đúc tiền đều để về bộ Công cất giữ. Đến năm Ất Sửu (1925), nghị đỉnh chỉnh đốn hội viên hội đồng trường Kỹ nghệ thực hành đã được thông qua. Bên cạnh đó, trường còn sung một viên quan người Nam làm Trị sự hội đồng. Cơ Mật viện tâu lên, chuẩn lấy sung Thị lang bộ Hộ Hồ Đắc Khải sung giữ chức ấy.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, trường Bách Công mang nhiều tên gọi khác nhau. Năm 1921, trường được chuyển giao cho Chính quyền Bảo hộ Pháp quản lý và đổi thành École Pratique D’Industrie de Hué tức Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế. Năm 1942, trường mang tên Kỹ thuật Công nghiệp Huế. 10 năm sau (tức năm 1952) đổi tên thành Học xưởng Kỹ nghệ Huế. Đến năm 1954 là trường Chuyên nghiệp Kỹ nghệ Huế. Năm 1956, lại có tên gọi là Trường Trung học Kỹ thuật Huế. Năm 1976 là Trường Kỹ thuật Huế. Năm 1977 là Trường Công nhân Kỹ thuật Cơ điện Huế. Đến tháng Tháng 8 năm 1993, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế bàn giao Trường cho Bộ Công nghiệp (tức Bộ Công nghiệp nặng cũ) quản lý và đổi thành Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế (tên cũ của trường từ thời 1921). Năm 1998 trường được nâng cấp đào tạo và đổi tên trường thành Trường Trung học Công nghiệp Huế. Năm 2005, trường tiếp tục được nâng cấp đào tạo và đổi thành Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế.
Có thể nói, trường Bách Công xưa là một trong những trường dạy nghề đầu tiên ở Việt Nam. Với bề dày lịch sử gần 120 năm, trường đã đào tạo ra biết bao nhân tài, góp phần cho sự phát triển của xã hội. Trải qua những năm tháng theo lịch sử dân tộc, trường đã thực hiện các mục tiêu đào tạo khác nhau, nhưng truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, tình bạn nghĩa thầy, học để làm người… vẫn được trường giữ gìn phát huy cao độ.
T.Q - T.B
(SHSDB30/09-2018)
Tài liệu tham khảo:
1. Cao Tự Thanh, Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ (tục biên), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, năm 2012.
2. Cao Tự Thanh, Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, năm 2012.
3. Hồ sơ H47/10, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
4. Hồ sơ 1729, Tòa khâm sứ trung kỳ - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.