Trường Bách Công xưa qua chính sử triều Nguyễn

14:54 20/12/2018

THƠM QUANG - THANH BIÊN

Trong khối tài liệu hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV có khá nhiều tư liệu liên quan đến trường Bách Công xưa (tức trường Cao đẳng Công nghiệp Huế ngày nay). Bên cạnh tài liệu tiếng Pháp thuộc phông Tòa Khâm sứ Trung kỳ, chúng tôi cũng xin được cung cấp thêm một số thông tin quan trọng về trường Bách Công xưa được ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn.

Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế hiện nay

Đại Nam thực lục là bộ sử lớn, do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, gồm hai phần tiền biên và chính biên, ghi chép các sự kiện xảy ra dưới triều Nguyễn qua 9 đời chúa và 13 đời vua. Từ bộ Đại Nam thực lục tiền biên đến bộ Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ hiện vẫn còn ván khắc và đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Tuy nhiên,bộ Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ tục biên vì chiến tranh xảy ra nên chưa kịp khắc in. Còn bộ Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ hiện chỉ còn 26 mặt khắc đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Bản chép tay của hai bộ sử trên được tìm thấy ở bên Pháp và được nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu. Trong hai bộ sử này có rất nhiều chi tiết ghi chép về trường Bách Công xưa.

Trường Bách Công (tên tiếng Pháp là École Confessionelle de Huế), được thành lập vào tháng 10, năm Kỷ Hợi (1889), dưới triều vua Thành Thái thứ 11. Điều 0931, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ tục biên, quyển 11 có ghi chép về sự kiện này như sau: “Bắt đầu đặt Trường Bách công ở kinh thành. Khâm sứ đại thần Boulloche bàn nói hiện nay việc xây dựng ngày càng gấp rút, cần nhiều loại thợ, nên lập một trường học tập kỹ nghệ để ngày sau gặp việc ứng biện có người mà dùng. Cơ Mật Viện tâu lên, chuẩn ban dụ cho thi hành (chuẩn cho nha môn Vũ khố trích tiền công xây một trường học trong kinh thành, gọi là Trường Bách Công (dạy các nghề thợ sắt, thợ mộc, thợ rèn)”.

Khi mới thành lập, trường Bách Công có khoảng 200 học trò theo học, mỗi tháng được cấp học bổng 3 đồng. Giáo sư dạy học chỉ dạy kỹ nghệ mà không dạy văn chương, chữ nghĩa. Các quy định trong trường Bách Công xưa cũng rất nghiêm ngặt. Học trò nếu ai lười biếng học hành hoặc bị tố cáo việc khác thì đuổi học; ai phạm lỗi thì do quan coi trường khiển trách, giám thị trừng phạt. Đến kỳ thi tay nghề, nếu ai dự hạng trúng cách thì được cấp một sổ thợ, một tấm bằng. Sau khi học nghề xong thi đỗ ra trường nếu muốn vào làm công trong Sở Đốc công hoặc theo các sở tư nhân làm việc đều cho tùy ý.

Tháng 3, năm Canh Tý (1900), vua Thành Thái cho thân định điều khoản về trường Bách Công. Điều 0963, quyển 12, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ tục biên có chép: “Thân định điều khoản về Trường Bách công(nguyên nhân số trong trường Bách Công có Trợ giáo 13 người, công nhân 151 người, học trò 72 người, học bổng mỗi tháng tổng cộng 897 đồng, lại trích giản binh 100 người sung dịch. Đến lúc ấy giảm bớt chính binh giản binh, giao cho viên Quản giáo trường ấy chọn lấy lính thợ khéo léo 28 người giữ lại trong trường để đủ người dạy dỗ. Học trò nguyên số 72 người, nay thêm 28 người cho đủ 100. Phàm học trò vào trường tròn một tháng phải do họ tự nguyện ghi tên vào sổ của trường học tập ba năm, sau khi học thành hoặc cho điền bổ chỗ khuyết, hoặc về nhà lập xưởng riêng, hoặc muốn làm công cho tư nhân cũng đều cho phép. Còn số người và lương tháng thì thợ vẽ và kiểm tra máy móc đều 1 người, lương tháng đều 20 đồng, thợ cưa gỗ 1 người lương tháng 30 đồng, Trợ giáo 10 người lương tháng đều 6 đồng, học trò 100 người lương tháng 3 đồng hoặc 2 đồng, lương chi cộng 640 đồng, ít hơn nguyên số 257 đồng)”.

Tháng 4, năm Đinh Mùi (1907), nhằm nâng cao ngành nghề cho các học viên, vua Thành Thái đã chuẩn cho mở rộng thêm học quy trường Bách Công. Ban đầu, Khâm sứ đại thần Levecque bàn nói trường Bách Công lúc đầu chỉ lập ra để chuyên dạy kỹ nghệ, đến nay trường ấy trở thành một sở ứng dịch, tuy những người có tay nghề cũng có thể làm việc máy móc nhưng hiện nay xe lửa tàu máy cùng các xưởng máy móc càng ngày càng nhiều, nghĩ nên tu chỉnh mở rộng, dạy thêm kỹ nghệ bách công để về sau giỏi nghề chuyển đi nơi khác dạy khắp cho quốc dân, nghĩ cũng có ích. Bèn sai Thượng thư bộ Công sung Cơ mật viện đại thần Nguyễn Hữu Bài sung làm hội viên hội đồng với Khâm sứ đại thần và các quan Pháp bàn bạc tiến hành.

Dưới triều vua Khải Định, trường Bách Công có một nhiệm vụ đặc biệt là đúc tiền cho Nhà nước, trong sách Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ, quyển 4 điều 051 có khắc lại sự việc đó là vào ngày 1 tháng 7 năm Kỷ Mùi (1919), khi có buổi thiết triều, vua Khải Định lo lắng vì thiếu tiền. Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Hữu Bài đã tâu vua: Hiện trường Bách Công đang đúc”. Năm Tân Dậu (1921), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn đã cho bãi bỏ Chú tiền cục ở Kinh, vốn được dựng lò ở trường Bách Công trong thành, những đồng kẽm thiếc còn thừa cùng vật dùng đúc tiền đều để về bộ Công cất giữ. Đến năm Ất Sửu (1925), nghị đỉnh chỉnh đốn hội viên hội đồng trường Kỹ nghệ thực hành đã được thông qua. Bên cạnh đó, trường còn sung một viên quan người Nam làm Trị sự hội đồng. Cơ Mật viện tâu lên, chuẩn lấy sung Thị lang bộ Hộ Hồ Đắc Khải sung giữ chức ấy.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, trường Bách Công mang nhiều tên gọi khác nhau. Năm 1921, trường được chuyển giao cho Chính quyền Bảo hộ Pháp quản lý và đổi thành École Pratique D’Industrie de Hué tức Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế. Năm 1942, trường mang tên Kỹ thuật Công nghiệp Huế. 10 năm sau (tức năm 1952) đổi tên thành Học xưởng Kỹ nghệ Huế. Đến năm 1954 là trường Chuyên nghiệp Kỹ nghệ Huế. Năm 1956, lại có tên gọi là Trường Trung học Kỹ thuật Huế. Năm 1976 là Trường Kỹ thuật Huế. Năm 1977 là Trường Công nhân Kỹ thuật Cơ điện Huế. Đến tháng Tháng 8 năm 1993, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế bàn giao Trường cho Bộ Công nghiệp (tức Bộ Công nghiệp nặng cũ) quản lý và đổi thành Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế (tên cũ của trường từ thời 1921). Năm 1998 trường được nâng cấp đào tạo và đổi tên trường thành Trường Trung học Công nghiệp Huế. Năm 2005, trường tiếp tục được nâng cấp đào tạo và đổi thành Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế.

Có thể nói, trường Bách Công xưa là một trong những trường dạy nghề đầu tiên ở Việt Nam. Với bề dày lịch sử gần 120 năm, trường đã đào tạo ra biết bao nhân tài, góp phần cho sự phát triển của xã hội. Trải qua những năm tháng theo lịch sử dân tộc, trường đã thực hiện các mục tiêu đào tạo khác nhau, nhưng truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, tình bạn nghĩa thầy, học để làm người… vẫn được trường giữ gìn phát huy cao độ.

T.Q - T.B  
(SHSDB30/09-2018)


Tài liệu tham khảo:

1. Cao Tự Thanh, Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ (tục biên), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, năm 2012.
2. Cao Tự Thanh, Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, năm 2012.
3. Hồ sơ H47/10, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
4. Hồ sơ 1729, Tòa khâm sứ trung kỳ - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.  



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN LONGKính tặng thầy: Cao Xuân Hưởng, Nguyễn Trực Luyện và H.N

  • VÂN LONGHuế đã vào tôi từ thuở thiếu thời qua hai câu thơ của Nam Trân:                Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng                Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo

  • PHAN THUẬN ANCó một bãi đất trống nằm giữa Ngọ Môn và Kỳ Đài. Nói chính xác hơn, không gian ấy được giới hạn bởi đường 23 tháng 8 ở phía bắc, chân tường Kinh thành ở phía nam, con đường ngắn sau cửa Thể Nhân (thường gọi là cửa Ngăn) ở phía đông và con đường ngắn sau cửa Quảng Đức ở phía tây. Chiều bắc nam của nó rộng gần 125m và chiều đông tây dài khoảng 360m.

  • HỒ VĨNHTôi đứng trên sân thượng Sài Gòn- Morin Huế, nhìn lên phía Tây thành phố trong buổi chiều tà le lói vài tia nắng trên các tán lá rất cao. Nhìn về phía Bắc sông Hương, Thành nội cổ kính chìm trong cây xanh.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTôi chưa biết Huế nên buồn vì bỏ qua một vẻ đẹp. Buồn vì mãi mãi không thể chiêm ngưỡng cố đô của đất nước một thời ngang ngửa. Một khoảng trống văn hóa về cổ vật kiến trúc nguyên vẹn của tịnh đô Huế không thể lấp đầy trong tôi, luôn tin tưởng vào sự hữu linh của vạn vật.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤN(Nhân xem “Huế - đất mẹ của tôi” sách ảnh của Đào Hoa Nữ. Nhớ Huế, suy ngẫm và…. cảm nhận)

  • TRƯƠNG THỊ THUYẾT1. Huế không chỉ nổi tiếng là một thành phố đẹp, nên thơ với những danh lam thắng cảnh như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ và những lăng tẩm cổ kính...mà còn được du khách biết đến bởi những nghề truyền thống của mình.

  • LÊ THỊ KIỀU HẠNHHiếm có một vùng đất nào trên thế giới mà con người đã tạo ra một bản sắc văn hóa độc đáo như kiểu nhà vườn Huế.

  • DĨNH QUỐC ANHLăng tẩm Huế là một trong những thành tựu rực rỡ bậc nhất của kiến trúc văn hóa cổ Việt Nam. Ngoài 8 lăng chính của các vua Gia Long, Minh Mạng,Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Kiến Phúc, Đồng Khánh, Khải Định, còn có đến hàng ngàn ngôi mộ tồn tại qua nhiều thế kỷ của các bậc danh nhân văn hóa, người có công với đất nước.

  • LÊ VIẾT XUÂNCó thể nói, so với các Bảo tàng và Di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh toàn quốc, thì Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên - Huế có một vị trí quan trọng, sau khu Di tích Kim Liên (Nghệ An), khu Di tích Pác-Bó (Cao Bằng), khu Di tích Phủ Chủ tịch và Bảo tàng Hồ Chí Minh Hà Nội.

  • BẢO ĐÀN 1. Đặt vấn đề1.1. Như một sự ngẫu nhiên của lịch sử, xứ Huế - từ vùng đất biên viễn quốc gia trong nhiều thế kỷ, trở thành thủ phủ của vùng miền và là kinh đô của một quốc gia thống nhất sau đó. Đây chính là nền tảng thuận lợi để vùng đất này hội tụ, quy tập cho mình một hệ thống làng nghề thủ công, cần thiết cho sự tồn tại và làm tròn vai trò của một vùng trung tâm.

  • BỬU Ý28 Tháng Hai lại về, gợi nhớ về sinh nhật của Trịnh Công Sơn. Vào thời điểm này, bạn bè Trịnh Công Sơn ở Huế và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đang chuẩn bị cho Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn theo chủ trương của UBND tỉnh và mong muốn của những người yêu mến nhạc sĩ tài hoa này.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Bửu Ý- người bạn rất gắn bó với Trịnh Công Sơn - như một gợi ý mời gọi bạn bè cùng góp ý để sớm hình thành ý nguyện này.

  • THANH TÙNGNhững dịp lễ hội, những chiều hè gió lộng và đẹp trời, trên bầu trời cố đô Huế rực rỡ đủ sắc màu của những cánh diều mượt mà trong hình dáng các loài chim, thú: long, lân, ly, phụng, công, bướm, quạ. Đặc sắc nhất thì diều đại bàng cứu công chua, diều bướm đốt pháo, diều Tôn Ngộ Không...

  • NGUYỄN QUANG HÀCả khung trời hồng dần lên. Sóng Tam Giang lấp lánh hồng. Con thuyền của chúng tôi như rẽ bình minh đi thẳng đến mặt trời. Bầy chim trời đang ăn trên mặt phá, gặp động, chúng rào rào vỗ cánh vù bay lên, rợp trời, như một đám mây, rồi lại rào rào hạ cánh đáp xuống phía phá bên kia.

  • TRƯƠNG THỊ THUYẾTĂn là một biểu hiện của văn hóa. Nghiên cứu nhóm từ chỉ cách ăn uống, chỉ các món ăn của Huế là tìm ra những nét riêng biệt trong sắc thái văn hóa Huế.

  • THANH TÙNGVăn hoá tâm linh là một loại hình văn hoá tinh thần đặc thù của nhiều dân tộc trên thế giới. Với người Việt, từ xưa đến nay văn hóa tâm linh thể hiện ở tình cảm linh thiêng, ở niềm tin và sự tri ân của mọi người đối với những người thân đã mất, niềm tin của cả cộng đồng đối với những vị anh hùng, các bậc tiền bối đã có công lao xây dựng, bảo vệ đất nước; các vị tiền hiền được tôn làm Thần - Thánh, Thành hoàng; thể hiện sự kính trọng và cầu mong sự che chở của các vị thiên thần v.v…

  • TRẦN HÀ TRUNGCứ mỗi lần nghe tiếng trống vang khắp nước, nhất là ở Đống Đa lịch sử (mồng năm tháng giêng) lòng tôi rộn ràng từ những ngày bé nhỏ.

  • HỒ VĨNH       Phóng sựTôi đứng trên nhà bia lăng Minh Mạng thì nghe kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) đột ngột qua đời vì bệnh tim. Tôi bàng hoàng lặng người trong giây lát rồi đạp xe về Thế Miếu nơi công trình Kazik đang trùng tu.

  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)