Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Mộng Giác

16:16 29/08/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊBạn đọc cả nước - nhất là những ai quan tâm đến lịch sử và tiểu thuyết lịch sử - hẳn đã biết Nguyễn Mộng Giác là tác giả bộ tiểu thuyết trường thiên “Sông Côn mùa lũ” (SCML) 4 tập, 2000 trang viết về thời Tây Sơn-Nguyễn Huệ (NXB Văn học-Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998).

Trước năm 1975, ông là giáo sư dạy văn nổi tiếng ở Sài Gòn và đã là tác giả của nhiều tập truyện dài. Ông hiện định cư tại Mỹ. Khi SCML ra đời, tôi chưa hề quen biết ông, cũng không phải nhà phê bình chuyên nghiệp, nhưng có dịp được đọc sách, lại đang cư trú trên vùng đất còn in dấu nhiều di tích thời Tây Sơn-Nguyễn Huệ và biết ông là em rể một nghệ sĩ nhiếp ảnh họ Nguyễn Khoa quen biết, tôi đã đánh bạo viết bài phê bình (Tạp chí Sông Hương - số 4/2000). Đang mong có dịp gửi ông bài viết, càng mong được gặp ông để “tranh cãi” thì vào những ngày Huế đang rộn ràng chuẩn bị cho Festival 2002, tôi nghe ông gọi điện, không phải từ Mỹ, mà từ căn nhà nhỏ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh họ Nguyễn Khoa ở “thôn Vĩ”. Thì ra ông vừa về thăm Huế và đã đọc bài phê bình của tôi.
Cứ tưởng ông đã già lắm, hoá ra ông còn kém tôi một tuổi (ông sinh năm 1940), tuy mái tóc hoa râm đã chớm hói. Với nụ cười chúm chím rất dễ gần, ông nhanh nhẹn bắt tay tôi và chúng tôi “vào chuyện” ngay, không chút khách sáo.
- Phê bình sách của anh mà chưa có dịp hỏi anh SCML đã được sáng tác như thế nào?
- Hồi tôi viết cuốn sách ấy đời sống còn cơ cực lắm. Sáng, 6 giờ dậy đạp xe đi làm công trong tổ hợp mì sợi Dân Sinh ở Phú Lâm, mang theo một “ăng-gô” gạo kèm ít “chao”, bắc sẵn bên lò mì, 12 giờ trưa nghỉ ăn xong là cắm cúi ngồi viết đến đầu giờ làm chiều. Trên đường về lại Thị Nghè, chở mì đi bán. Tối về đến nhà, 9 giờ lại ngồi vào bàn cho đến 12 giờ khuya. Suốt mấy năm như thế, bắt đầu viết từ 1978 đến 1981 thì xong. Tôi có thói quen là làm đề cương rất kỹ lưỡng, còn khi viết, bản thảo rất sạch sẽ, ít sửa chữa. Cũng phải nói là may có niềm say mê văn chương và quyết tâm viết bộ SCML như là một món nợ phải trả cho quê hương, tôi mới sống qua được những tháng ngày gian lao đó...
- Thế vì sao anh lại phải ra đi?
- Để tôi kể nốt... Viết xong, tôi đến gặp anh Hà Mậu Nhai, Giám đốc Nhà xuất bản “Văn nghệ T.P. Hồ Chí Minh”, trình bày công việc của mình. Anh Hà Mậu Nhai rất hoan nghênh, nhưng khi thấy chồng bản thảo dày hơn cả gang tay, tính phải dùng một số lượng giấy quá lớn giữa lúc đất nước còn nhiều thiếu thốn, anh bảo tôi tạm cất giữ, chờ một thời gian sau...
- Theo tôi biết, anh Hà Mậu Nhai là một người rất dễ chịu.
- Vâng. Anh ấy là người rất tốt bụng. Anh khuyên tôi nên đánh máy bản thảo để phòng bản gốc thất lạc và tạm ứng cho tôi 500 đồng, sau khi ký hợp đồng đặt tôi viết bộ truyện thời Tây Sơn...Nhưng một người tốt không thể xoay chuyển được thời cuộc. Gạo không đủ ăn, sách viết ra không in được, con cái chẳng có tương lai gì...; với tôi, thế là đường cùng, đành phải ra đi...
- Chuyến đi hẳn là phiêu lưu...
- Vâng! Vậy nên bản thảo chưa đánh máy được, tôi không dám mang theo. Mấy năm sau, có điều kiện bảo lãnh nhà tôi sang, nhà tôi mới đem bản thảo SCML qua.
Vậy là để có bộ tiểu thuyết đồ sộ SCML hôm nay, phải “tính công” cho cô gái Huế Nguyễn Khoa Diệu Chi. Chuyến này, chị về cùng Nguyễn Mộng Giác, nhưng tiếc là tôi không gặp được để hỏi chuyện. Chị vừa đi thăm bà con, bạn bè. Trở lại chuyện phê bình SCML, tôi hỏi Nguyễn Mộng Giác:
- Bài tôi viết về “Sông Côn mùa lũ”, có điều gì làm anh khó chịu không?
- Bây giờ ít người chịu đọc những bộ sách dày như thế, có được người đọc kỹ như anh là mừng rồi. - Nguyễn Mộng Giác nhỏ nhẹ và từ tốn tránh trả lời trực diện, nhưng một lát sau, ông nói tiếp - Anh có phê bình là tôi dành quá ít trang miêu tả những chiến công hiển hách của Nguyễn Huệ, nhưng tôi nghĩ, về các trận đánh này, nhiều cuốn sách đã viết rồi; tôi muốn miêu tả khía cạnh khác, ví như thái độ của người dân trước những biến động lịch sử...Do đó, trong SCML, bên cạnh các nhân vật có thực của lịch sử, tôi đã xây dựng tuyến nhân vật hư cấu của đời thường - những nhân vật vô danh (không có tên trong lịch sử), nhưng cũng là nhân vật chính, với rất nhiêu tâm huyết, tiêu biểu là cô An...
Tôi muốn được nghe ý kiến của ông nên không trình bày lại các nhận xét của mình. Thực ra thì số trang nhiều ít chưa phải là điều quyết định. Tôi chỉ tiếc là người anh hùng Nguyễn Huệ qua những trang miêu tả chiến trận chưa thấy “bay lên” cho xứng với một thiên tài quân sự...Hình như lúc này ông cũng chưa định bàn sâu về tác phẩm của mình mà muốn nói đến vấn đề có tính khái quát hơn:
- Anh có nhớ bài của ông Trần Thanh Đạm nói về “vĩ mô” và “vi mô” trong sáng tác đăng trên báo “Văn nghệ” số Tết vừa rồi không? Theo tôi, tiểu thuyết chủ yếu là vi mô, qua cái vi mô mà làm nổi bật những điều bản chất của cái vĩ mô. Bản chất của tiểu thuyết là “thế sự”, dù là tiểu thuyết lịch sử. Một cuốn tiểu thuyết lịch sử chỉ minh hoạ lịch sử, từ đầu chí cuối chỉ toàn các vua quan âm mưu tranh giành quyền lực, còn đời sống người dân thế nào, biến cố lịch sử đó ảnh hưởng đến họ ra sao, tác giả không quan tâm; tôi cho cuốn sách đó không phải là tiểu thuyết đúng nghĩa...
- Bên anh vẫn có báo “Văn nghệ” đọc thường xuyên à?
-Vâng. Nhiều loại sách báo trong nước được chuyển sang bán bên đó...
- Như tờ “Văn nghệ”, anh phải mua bao nhiêu?
- Ba đô-la.
- Thế anh đã đọc tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” chưa? Theo tôi, đây là một cuốn sách hay.
- Tôi đọc rồi. Theo tôi, cuốn ấy vẫn nặng về “vĩ mô”. Tiểu thuyết “Vỡ bờ” của Nguyễn Đình Thi, tập I thành công hơn vì chủ yếu là “vi mô”. Hay như “Con đường đau khổ” của Alexei Tolstoi, phần “Hai chị em” chủ yếu là “vi mô” nên thành công hơn hai tập sau.
- Hình như anh vẫn trung thành với cách viết “cổ điển”, truyền thống?
- Tôi biết có người nêu vấn đề: Lịch sử như cái đinh đã đóng vào tường; người viết tiểu thuyết lịch sử có thể tuỳ thích “treo” vào đó những bức tranh của mình. Tôi thì quan niệm người viết tiểu thuyết lịch sử phải tôn trọng những gì đã được ghi vào lịch sử. Còn về cách viết thì lớp chúng tôi, hồi những năm sáu mươi đã học theo các trào lưu “cách tân” ở châu Âu nhưng thấy không đến đâu. Hình như một số bạn trẻ ở trong nước hiện nay đang dẫm lại vết chân lớp bọn tôi bốn chục năm trước.
- Tôi nghĩ là các kiểu cách tân về hình thức đều có cái lý của nó. Nếu như cứ theo cách kể chuyện có đầu có đuôi theo trình tự thời gian thì để viết một cuốn tiểu thuyết ôm trùm khoảng không gian rộng lớn trong dăm chục năm thì biết mấy trang cho vừa?
- Làm sao có thể miêu tả được tất cả. Mỗi tác giả chỉ lựa chọn những gì soi sáng cho tư tưởng của tác phẩm. Nếu tôi không nhầm thì tiểu thuyết Việt ít có tác phẩm gây tiếng vang lớn vì thiếu sức nặng của tư tưởng.
- Chắc anh còn nhớ rằng tôi cũng đã nêu vấn đề “tư tưởng của tác giả và tác phẩm SCML không thật rõ”. Có đúng là tác giả chưa tiện viết hết những suy tưởng của mình?
- Có phần như thế. Như đã nói với anh, tôi hoàn thành tiểu thuyết năm 1981 tại Sài Gòn, khi đất nước chưa “đổi mới”...
- Mà thời nào cũng vậy, nhà văn dám đặt ra những vấn đề tư tưởng táo bạo đều rất dễ đụng chạm...
- Nói đến vấn đề này thì tôi cho rằng “thiên hạ” đã phóng đại vai trò và ảnh hưởng của nhà văn. Nói ảnh hưởng đến quần chúng thì một ngôi sao ca nhạc xuất hiện, có hàng vạn người hưởng ứng, chứ nhà văn thì nói mấy ai nghe! Có một điều nên suy nghĩ là nhà văn nào nổi bật nhờ sự khác biệt của chế độ chính trị thì thường không bền. Như Alexandr Soljennitsyn (nhà văn Nga, giải Nô-ben 1970), sau khi về nước và nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ thì phương Tây hầu như không còn ai nhắc đến ông nữa!
- Hẳn là ông cũng muốn nói rằng, một số cây bút trong nước lâu nay được nơi này nơi kia ở phương Tây đề cao, chưa hẳn là đã có giá trị văn học và có sức sống lâu bền?
- Tôi chỉ nêu vấn đề để cùng suy nghĩ thôi, còn việc đánh giá phải căn cứ vào từng tác phẩm của từng tác giả...
- Thôi, ta trở lại chuyện “vi mô”. Xin hỏi anh một câu có tính riêng tư: Giá hồi ấy cuộc sống thoải mái như bây giờ thì anh có “ra đi” không?
- Như bây giờ thì đi làm gì. Không chỉ vì đời sống vật chất nâng cao. Dạo qua mấy cửa hàng sách ở Sài Gòn, tôi thấy mừng quá. Sách khảo cứu muốn loại gì cũng có, lại in rất đẹp.
- Chỉ tiếc là số lượng in quá ít.
- Chúng tôi bên Mỹ còn khó khăn hơn. Sách in ba trăm, dăm trăm bản là chuyện thường. Người viết phải bỏ tiền in, phải lo phát hành...
- Vậy anh làm gì để sống?
- Tôi làm cho một hãng quảng cáo đã mười năm nay. Còn làm văn chương thì chỉ tốn thêm tiền thôi.
- Nói như anh, bộ tiểu thuyết SCML khi in bên đó, anh đã phải bỏ tiền ra?
- Vâng. Chỉ riêng tiền đánh máy đã hết 5000 đô-la. In 1000 bản hết 25.000 đô-la, may là có một người bạn, cũng là một chàng rể của Huế đã giúp “ứng trước” khoản tiền đó; sách bán từ năm 1991 đến nay mới hết. Vậy nên tôi rất mừng khi sách được in trong nước và nay sắp tái bản. Ở Mỹ, người làm kinh doanh ai dại gì bỏ vốn mười năm mới bán hết sản phẩm! Nhưng với mình, văn chương là cái “nghiệp” nên cứ phải theo đuổi. Tôi còn làm tờ tạp chí “Văn học”, làm không công và người viết bài cũng không có nhuận bút. May là tiền bán báo vừa đủ tiền mua giấy và công in. Tôi hình dung là sau này việc in sách báo bằng tiếng Việt ở nước ngoài sẽ càng khó khăn hơn vì các thế hệ tiếp nối chủ yếu đọc bằng tiếng Anh.
- Nhưng chắc là anh vẫn đang tiếp tục viết tiểu thuyết?
- Vâng. Tôi đang soạn bộ tiểu thuyết về cuộc đời mấy gia đình người Việt định cư ở nước ngoài...
Cuộc trò chuyện đã dài. Tôi biết Nguyễn Mộng Giác còn “chương trình” đi thăm Hoàng Phủ Ngọc Tường và Bửu Ý...Chúng tôi bắt tay tạm biệt. Nguyễn Mộng Giác tiễn tôi ra ngõ và vẫn với nụ cười mỉm hiền lành. Mong là ông sớm hoàn thành tác phẩm mới và mong sớm được đọc nó, dù biết rằng cuốn sách ông đang viết rất dễ “đụng chạm”. Nhưng chẳng lẽ cuộc đời thăng trầm của hàng triệu người dân Việt đang định cư ở nước ngoài không đáng là đề tài cho nhà văn và bạn đọc cả trong và ngoài nước quan tâm hay sao?
Trường An-Huế, tháng 4/2002
N.K.P

(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Rất nhiều hoa, rất nhiều nụ cười đã hiện diện một cách cởi mở và đầm ấm trong buổi chiều ngày 18.7.2008 tại Trung tâm Du lịch và Dịch vụ Festival - Huế, nơi diễn ra Lễ kỷ niệm 25 năm Tạp chí Sông Hương phát hành số báo đầu tiên (1983-2008).

  • HỒ THẾ HÀĐến nay, Tạp chí Sông Hương đã tròn một phần tư thế kỷ (1983-2008) kể từ số đầu tiên được ra mắt bạn đọc. Hai mươi lăm năm đủ để vui buồn ôn lại những chặng thác ghềnh và phẳng lặng của một dòng sông từ nguồn ra biển.

  • ĐẶNG VĂN VIỆTKỷ niệm 63 năm Cách mạng Tháng TámSau ngày đảo chính (9-3-1945), Nhật lật đổ Pháp. Phong trào Việt Minh như một luồng gió mạnh, thổi từ miền Bắc vào miền Trung, miền Nam, thức tỉnh lòng yêu nước, thương nòi của người dân đất Việt, thúc giục mọi người sẵn sàng để chớp thời cơ, giành lại chính quyền về tay nhân dân.

  • TRẦN THÙY MAIThuở trước, mỗi đêm cuối năm, anh Hải Bằng bao giờ cũng đến thăm trụ sở Hội Văn nghệ, rồi túc tắc ngự trên chiếc xe babeta màu đỏ, ghé thăm nhà bạn bè thân hữu đó đây trước khi quay về để kịp đón giao thừa.

  • NGUYỄN QUANG HÀCuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cả nước xôn xao về vụ án Trần Dụ Châu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong một cuộc vui gần đây, nhân nhắc đến việc bình chọn các nhân vật, sự kiện nổi bật trong năm trên báo chí, có ý kiến phong cho nhà văn Hồng Nhu là người đạt nhiều cái “nhất” nhất trong làng văn ở Huế.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG - Chúng ta lại thắng rồi. Thỉnh thoảng lão lại reo lên như thế khi bất chợt gặp một người mà lão coi là bạn. Lão nói câu ấy cả khi lão đang thoi thóp trên giường bệnh, miệng méo xệch lão nói một cách khó khăn nhưng vừa nói lão vừa cười khiến cho người ta yên tâm là lão bắt đầu sống trở lại, cái chết còn lâu mới quật được lão.

  • PHẠM QUANG TRUNGAnh Cao Xuân Hạo kính mến!Trước tiên, xin thú nhận, tôi là người mê say tên tuổi anh đã từ lâu. Tuổi trẻ và sau đó là những năm tháng trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu, phê bình văn chương đã đưa tôi đến những trang dịch văn xuôi Nga – Xô viết đầy sức cuốn hút của anh, như Chuyện núi đồi và thảo nguyên, Chiến tranh và hòa bình, Truyện ngắn Gorki, Con đường đau khổ, Tội ác và trừng phạt…

  • VINH HUỲNHLTS: Có bạn đọc gửi thư đến Toà soạn chúng tôi đề nghị nếu chọn topten sự kiện nổi bật trong làng báo chí năm 2001 thì không nên bỏ qua “hội chứng” đánh vào các trường đại học, trong đó có Đại học Nghệ thuật Huế và trường Viết văn Nguyễn Du.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH(Tham luận đọc trong hội thảo)Cho đến đầu thế kỷ 21 này, chúng ta vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về mặt kinh tế đã là điều đáng sợ nhưng cái đáng sợ hơn là nguy cơ vong bản về mặt văn hoá. Xu thế toàn cầu hoá đang xâm nhiễm và xâm thực vào đời sống chúng ta một cách ngọt ngào mà chua cay, dịu êm mà đẫm máu.

  • TRẦN HOÀNLTS: Từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 12 năm 2001 đã diễn ra cuộc tập huấn - hội thảo báo chí văn nghệ địa phương tại thủ đô Hà Nội. Nhạc sĩ Trần Hòan, Phó Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Phó Chủ tịch UBTQ.LH các Hội V.H.N.T Việt Nam đã đọc báo cáo đề dẫn hội nghị. Sông Hương xin trích đăng một phần trong báo cáo đó (đầu đề do chúng tôi đặt).

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀM(TBT: 1983 - 1986)Bây giờ nhìn lại những số Sông Hương đầu tiên (số 1 ra mắt tháng 6-1983) không khỏi cảm thấy tờ tạp chí như một… cô gái quê, giản dị, khiêm nhường, có vẻ… tồi tội. Giấy đen. Bìa mỏng. Bát chữ typo chỗ đậm chỗ nhạt. Sông Hương làm sang cho in ảnh tác giả, khốn nỗi, ảnh loè nhoè, không rõ mặt. Giá bao cấp 7 đồng/số, vẫn bị chê đắt. Được cái lượng bản in ngay số đầu là 4.000 bản. Trông khí sắc cuốn tạp chí vẫn chưa xa cái thời tranh đấu chống Mỹ, in sách báo trong gác trọ sinh viên.

  • TÔ NHUẬN VỸ(TBT: 1986 - 1989)Có năm kỷ vật của Hải Bằng tặng tôi và gia đình, từ ngày anh còn sống cho đến nay, sau 10 năm anh mất, tôi vẫn nhìn ngắm và chăm sóc hàng ngày. Đó là bức tranh hồ sen, là hai câu thơ anh viết trên giấy đặc biệt, là tất cả các tập thơ anh in từ sau 1975, là đôi chim hạc anh tạo bằng rễ cây và con chó Jò bé xíu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(TBT: 1991)Tôi có may mắn được làm Phó Tổng biên tập nhiều năm cho hai “đời” Tổng biên tập nổi tiếng là Nguyễn Khoa Điềm và Tô Nhuận Vỹ, nhưng đến “phiên” mình được gánh vác trọng trách thì chỉ đảm đương được một thời gian ngắn. Đã đành do tài hèn sức mọn, nhưng cũng vì đó là giai đoạn khó khăn sau “Đổi Mới”, chúng ta đang phải tìm đường, nhiều quan niệm - nhất là về văn học nghệ thuật chưa dễ được nhất trí…

  • HỒNG NHU(TBT: 1992 - 1997)Thời gian như bóng câu qua cửa. Mới đó mà đã một phần tư thế kỷ, tờ tạp chí Sông Hương có mặt cùng bạn đọc trong và ngoài nước.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH(TBT: 2000 - 2008)Vậy là đã tròn một phần tư thế kỷ. Ngày ấy, cũng vào mùa “Hạ trắng” nắng lên thắp đầy như nhạc Trịnh, tờ Tạp chí Sông Hương - tạp chí sáng tác lý luận phê bình nghiên cứu văn học nghệ thuật của xứ Huế được ra đời và đi qua cái ngưỡng “vạn sự khởi đầu nan” một cách kỳ diễm, đầy ấn tượng.

  • MAI VĂN HOANSáng 8 - 5 - 2008, ghé quán  26 Lê Lợi (trụ sở Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế) ngồi uống cà phê với hai nhà thơ Kiều Trung Phương và Ngàn Thương, tôi vô cùng sửng sốt khi Ngàn Thương cho biết người suốt đời đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử là anh  Phạm Xuân Tuyển đã mất cách đây gần 7 tháng tại Phan Thiết.

  • I.Con người ấy từng mang tên Nguyễn Sinh Cung, và tên chữ Nguyễn Tất Thành, trước khi đến với tên Nguyễn Ái Quốc, đã trải một tuổi thơ vất vả vào những năm kết thúc thế kỉ XIX, để bước vào thế kỉ XX với một niềm khao khát lớn: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ: tự do, bình đẳng, bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn sau những chữ ấy...” (1)

  • Từ rất nhiều năm nay tôi rất muốn bày tỏ đôi điều về những bi kịch cuộc đời mà nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) từng chịu đựng và trăn trở, từng nén vào lòng để sống và sáng tác.

  • Chiều 17.11 vừa rồi, ở địa chỉ 26 Lê Lợi đã diễn ra cuộc tọa đàm giữa đoàn nhà văn Trung Quốc với Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật, Phó Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ đã tháp tùng đoàn nhà văn bạn từ Hà Nội tới Huế.