Tiến lên kỳ đài, hạ cờ vàng quẻ ly, treo cờ đỏ sao vàng

09:00 08/08/2008
ĐẶNG VĂN VIỆTKỷ niệm 63 năm Cách mạng Tháng TámSau ngày đảo chính (9-3-1945), Nhật lật đổ Pháp. Phong trào Việt Minh như một luồng gió mạnh, thổi từ miền Bắc vào miền Trung, miền Nam, thức tỉnh lòng yêu nước, thương nòi của người dân đất Việt, thúc giục mọi người sẵn sàng để chớp thời cơ, giành lại chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 19-8-1945, tin Hà Nội đã nắm được chính quyền, huyện Phú Lộc, huyện Phong Điền đã khởi nghĩa thành công, càng làm cho bà con Cố đô sôi sục, chờ đợi.
Tôi đang theo học ở lớp Thanh niên Tiền tuyến Huế, hoạt động cùng tổ Việt Minh với anh Lâm Kèn, Phan Hàm, Khánh Khang,... được lệnh cùng anh Thế Lương (tức Cao Pha), hạ cờ quẻ ly, treo cờ đỏ sao vàng lên cột cờ Huế. Lá cờ to rộng bằng cả 2 gian nhà, trải ra trông như một tấm thảm lớn.
Bà con đất Thừa Thiên, ai mà chả biết Cửa Ngọ Môn, một công trình cổ kính xây dựng trên cổ thành đi vào nội cung. Chính diện trước Cửa Ngọ Môn cách hơn 200m là một đài khối khá đồ sộ, biểu tượng cho uy phong vua quan thời phong kiến. Đó là kỳ đài, giữa là cột cờ. Đài có 3 tầng, tường xây to rộng, tạo nên 3 bậc cấp nối tiếp nhau (cao 17m50). Cột cờ là những ống gang, to 2-3 người ôm mới xuể, nối ghép nhau cao vút lên trời xanh (29m52).
Bảo vệ kỳ đài là một tiểu đội lính dõng, làm thêm nhiệm vụ đốt pháo lệnh, nhân dân Huế (có cả tôi, gần 20 năm lớn lên trên đất này) sống quen với những tiếng pháo đùng phát ra từ kỳ đài. Cứ đến 6 giờ, 12 giờ, 18 giờ, mỗi lần ba phát làm chấn động cả bầu trời yên tĩnh của Cố đô, hòa với nhịp đập của trái tim, hơi thở, nếp sống của từng người dân.
Anh Thế Lương và tôi nai nịt gọn gàng, trong quân phục chỉnh tề: Calô 2 sừng đội đầu, bêrê kaki kiểu kỵ mã vàng óng, đôi ghệt cao cổ của chàng ngự lâm quân. Tất cả binh hỏa lực để xung trận, là “hai đứa tui”, là khẩu barillet to bằng bàn tay và 6 viên đạn út. Cuộn tròn lá cờ, gác lên hai chiếc xe đạp, chúng tôi đẩy, thẳng tiến hướng về kỳ đài...
Tôi lên gặp chỉ huy truyền lệnh: “Hạ cờ cũ - treo cờ mới”.
Có lẽ uy thế của Việt Minh quá mạnh, không gặp một phản ứng nhỏ nào. Vì đằng sau chúng tôi là hàng ngàn vạn nhân dân Thừa Thiên - Huế, bừng bừng, khí thế như một ngọn sóng thần đang chuẩn bị sẵn sàng xông lên lật đổ chế độ quân chủ, lập nên nền cộng hòa Việt .
Theo lệnh tôi, 5 lính pháo đùng, buộc cờ vào dây, qua ròng rọc, đưa cờ đỏ sao vàng từ từ lên cao và cờ nhà vua từ từ hạ xuống.
Anh Cao Pha và 5 lính pháo đùng, xếp hàng ngang, đứng nghiêm, đưa tay chào theo lễ nghi quân sự.
Hình thức thật đơn sơ, thời gian ngắn gọn.
Tôi còn nhớ hôm ấy, giờ Mùi (khoảng 14 giờ) ngày 14 tháng 7, Ất Dậu (tức 21-8-1945) trước 2 hôm ngày giành chính quyền ở Huế (23-8-1945).
Mấy phút sau, một máy bay 2 thân cánh bạc, quốc kỳ USA, lượn 3 vòng quanh cột cờ, nghiêng cánh như vẫy chào, rồi biến mất phía chân trời rạng đông.
Tôi không ngờ là một việc nhỏ đơn sơ ấy, lại mang một ý nghĩa trọng đại “báo hiệu sự chấm dứt một triều đại trị vì của nhà Nguyễn trên 143 năm (1802-1945), kết thúc 4000 năm lịch sử của chế độ phong kiến để chuyển qua một thời kỳ mới của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
Tôi đã được sống những giây phút đầy tự hào, đầy xúc động, những giờ phút không bao giờ quên. Cả thành phố Huế, cả đến những vùng quê xa 30-40 cây số, khi cờ đỏ sao vàng phấp phới trên trời xanh, hàng vạn tiếng hò reo.
“Cờ đỏ sao vàng trên cột cờ Huế, độc lập thực sự rồi, bà con ơi!”
Mấy hôm sau, trên cổng Ngọ Môn, tôi có mặt trong buổi nhà vua làm lễ thoái vị: giao ấn vàng, kiếm báu cho ông Trần Huy Liệu - đại diện của Chính phủ Trung ương từ Hà Nội vào. Trong cuộc mít tinh lịch sử, hàng vạn nhân dân Huế tụ tập để chứng kiến vị Hoàng đế cuối cùng của triều nhà Nguyễn thoái vị. Nếu chúa Nguyễn Hoàng là người đầu tiên thực hiện lời khuyên, lời tiên đoán của nhà ẩn dật nổi tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Hoành Sơn nhất đái Vạn đại dung thân”.
Thì vị Hoàng đế cuối cùng Bảo Đại, cũng là người tuyên bố chấm dứt nghiệp đế sau gần 3 thế kỷ (chúa - vua): “Thà làm dân một nước tự do, hơn làm vua một nước nô lệ”.
Trong buổi lễ long trọng (ngày 30-8-1945) có mục nghi thức mới: Hạ cờ vàng lần thứ hai và treo cờ đỏ sao vàng chính thức lên cột cờ của Cố đô Huế.
Viên lãnh binh khố vàng đến cạnh tôi, biết anh Cao Pha và tôi là người đã làm việc treo hạ cờ hôm ấy, ông ta nói:
- “Hôm hạ cờ nhà vua, cả đại đội khố vàng chúng tôi nằm rạp, dọc thành cổng Ngọ Môn. Hơn một trăm tay súng chĩa về các anh. Xin ý kiến Hoàng đế, Ngài bảo: “Chớ! chớ! Việt Minh đấy! Chúng mi nổ súng thì tao chết trước đấy. May quá, lính chỉ nằm im cho đến khi các anh đi khuất. Hôm ấy mà bóp cò, thì nay tôi toi mạng rồi, thật phúc lớn nhà tôi”.
Đến bây giờ, cứ mỗi khi xuất hiện cột cờ Huế trên màn ảnh truyền hình, bao ký ức sống lại trong tâm trí tôi. Tôi nhớ đến những anh lính pháo đùng, ngoan ngoãn và tội nghiệp. Số phận họ ra sao ngay sau những ngày sôi sục của năm tháng đã qua? Chắc chắn họ đã thành những công dân tự do của một nước Việt tự do.
Đ.V.V
(nguồn: TCSH số 234 - 08 - 2008)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vậy mà, đã hơn 50 năm, từ những năm tháng trẻ tuổi… Huế, ngày ấy đã xa. Đã là kỷ niệm. Đã mất đi nhưng vẫn không ngừng sinh nở. Như những câu thơ, một thời…

  • Việt Đức - Võ Quê - Phạm Xuân Phụng - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Văn Vũ - Lê Phùng - Thùy Phương - Trần Băng Khuê

  • Trại sáng tác văn học với chủ đề “Vinh Xuân - Mùa biển gọi” do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND xã Vinh Xuân tổ chức, diễn ra trong thời gian từ ngày 3/5 đến ngày 10/5/2024, gồm 14 nhà văn, nhà thơ và 1 nhạc sĩ khách mời, đã cho ra đời 58 tác phẩm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Ngày 18/9/1945, tại số 43 đường Trần Hưng Đạo, thành phố Thuận Hóa, Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên - tiền thân của Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế ngày nay được thành lập.

  • CHU SƠN

    Cuối năm 1963 tôi từ Hội An ra Huế để nhận lại tập thơ Quê Nhà và giấy phép xuất bản tại nha thông tin Trung Việt.

  • TRẦN DZẠ LỮ

    Gần một đời người làm thơ, sống giữa Sài Gòn với bao nhiêu thăng trầm dâu bể, có những ngày đói rách, lang thang. Bạn bè thì nhiều, có kẻ nhớ người quên sống khắp cùng đất nước, nơi đâu cũng để lại trong tôi ít nhiều kỷ niệm.

  • (SHO) Những người tôi gặp ở Huế trẻ hay già thường ngưỡng mộ anh là Thầy, một vị Thầy của môn âm nhạc, của tiếng, của lời, thân hay sơ mỗi người đều như chịu ít nhiều ân huệ của anh.  Nhưng thoạt mơ hồ tôi hiểu danh hiệu ấy khác hơn khi được ngồi với anh, bên bàn cơm, khi vui ca, khi đi dạo, khi nghe anh hát, khi thấy anh ngồi yên giữa bạn bè, anh hiện ra là vị Thầy bên trên âm nhạc... 

  • Mặc dù được các bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng GS-TS Trần Văn Khê đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 2 giờ 55 phút ngày 24.6. Ông thọ 94 tuổi.

  • LTS: Ngày 17-7-1988 nhà thơ THANH TỊNH đã qua đời tại Hà Nội sau một cơn bệnh nặng, thọ 77 tuổi. Tưởng niệm nhà thơ, người anh người đồng nghiệp đáng kính của anh em văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của anh Hoàng Trung Thông và đoạn trích trong Điếu văn đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ tại trụ sở Hội văn nghệ B.T.T ngày 19-7-1988.

  • DƯƠNG THỊ NHỤN

    Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.

  • LGT: Thúc Tề và Trần Kim Xuyến là hai nhà báo có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Một vấn đề đặt ra là: trong hai nhà báo liệt sĩ nói trên, ai mới đúng là “Nhà báo liệt sĩ đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam?”. Nhiều ý kiến công nhận nhà báo Trần Kim Xuyến là nhà báo liệt sĩ đầu tiên, trong khi các tư liệu lại cho chúng ta thấy Thúc Tề mới đúng là nhà báo liệt sĩ đầu tiên.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Trong số bạn bè thân tình của tôi, Ngô Minh rất “lạ”. Lạ đầu tiên là… nhỏ thó. Người thấp bé, tròn vo, tròn vo từ mấy chục năm ni luôn, chừ lại suốt ngày (e cả suốt đêm) ngồi máy tính viết bài.

  • Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như: Nhằm thẳng quân thù mà bắnThuyền trưởngRừng xưa xanh lá ;Kiếp chóNhững người rách việc; Chuyện kể năm 2000... đã qua đời vào lúc 6 giờ sáng ngày 18.12. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bước vào sáng tác văn chương từ năm 20 tuổi và đã có một bút lực dồi dào để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị.

  • Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 , quê  làng Trà Vi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Hội Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và bị Pháp bắt vào cuối năm 1930 và bị giam hai tháng rưỡi tại thị xã Thái Bình.

  • Thi sĩ Kiên Giang là tác giả những bài thơ nổi tiếng Hoa trắng thôi cài lên áo tím, Tiền và lá, Ngủ bên chân mẹ… Ông cũng là soạn giả của những vở cải lương quen thuộc như Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Chi - Mỵ Nương và hàng trăm bản vọng cổ. Như người bạn văn tâm giao Sơn Nam và thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính, Kiên Giang cả một đời phiêu bạt sống rày đây mai đó, cho đến khi trái tim đột ngột ngừng đập”...

  • Ở tuổi 89, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - tác giả của ca khúc nổi tiếng "Dư âm" sống nghèo túng, bệnh tật và cô đơn trong căn nhà nhỏ giữa lòng Sài Gòn.

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Nhà văn Trần Áng Sơn sinh ngày 12/7/1937 tại Hải Phòng, lớn lên ở Huế, trưởng thành ở Sài Gòn, mất ngày: 18/5/ 2014.

  • QUANG VIÊN

    Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là vị tướng tài năng và đức độ. “Ông là một danh tướng, một nhà chính trị và nhà quân sự lỗi lạc” - Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thốt lên khi nhớ về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như vậy. Trong cuộc sống tình cảm gia đình, cũng như ứng xử với văn hóa văn nghệ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng hết sức chí tình, có những việc làm rất đáng khâm phục. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về ông rất hay: “Sáng trong như ngọc một con người”…