NGUYÊN QUÂN
Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.
Nhưng đó chỉ là một thoáng cảm nhận ban đầu để người đọc có thế đặt từng bước chân lên một vùng đất luận giải thi ca chân xác đầy thống cảm để khai mở ra những ý niệm hoàn toàn lạ lẫm giữa những chiều kích thi ca đã từng hiện hữu trên văn đàn Việt.
Phải nói tác giả bắt đầu dẫn dắt người đọc từ một khái niệm đầy ngủng ngẳng u mặc, dường như đã hé mở cánh cửa cho độc giả bước vào chủ đề cốt tủy trong cuộc chơi đầy hệ lụy rắm rối và nghiệt ngả của ngữ nghĩa thi ca.
“Nhờ vậy, chiếc cầu tâm linh mới đủ sức chịu đựng “những âm binh chữ” vừa đi vừa quậy phá trước khi chịu thuần phục là một sinh thể thơ…”.
Và chính sự ngủng ngẳng mang tính chất U Mặc này sẽ dẫn độc giả đi trong trạng thái bình định chuẩn xác trên chếc cầu đầy trò chơi ảo ảnh, mộng mị và không thiếu phần ma mị quỷ quái của những con chữ được sinh hạ từ ý niệm của một gã làm thơ bất chấp mọi lề thói luật lệ, mọi quy ước câu thúc trong dạng thức cũng như trong ý niệm sáng tạo.
Hãy đi qua chiếc cầu để biết nhà thơ đang nối chiếc cầu chữ nghĩa từ trái tim của mình đến đâu, cái múi cầu kia sẽ vin níu vào điểm tựa vững chắc nào để có thể chịu đựng được tất cả những trò chơi đầy hiện sinh và hư vô của ngữ nghĩa. Đó có lẽ là nỗi mê hoặc dẫn dụ đầy hoài nghi với tôi hay bất kỳ ai khi lần giở những trang sách Những Con Chữ Qua Cầu Tâm Linh của nhà văn Triệu Từ Truyền.
Trở lại với chính bản thân của cuốn sách dày hơn hai trăm rưỡi trang này, với hai mươi bảy tiểu mục gồm tản văn và tiểu luận, mà tác giả đã dày công tuyển chọn trong gia tài khá đồ sộ của hơn nửa thế kỷ cầm bút.
Tôi nghĩ rằng với những thể loại mà tác giả đã đặt định cho tác phẩm của mình là tản văn và tiểu luận nghiêng hẳn về cõi thơ của các thi nhân thi bá đông tây kim cổ như Rabindranath Tagore hành trình và gặp gỡ; Paul Valéry nhà thơ tiếp bước sau trường phái tượng trưng; Lấn chiếm vĩnh hằng trong thơ Yves Bonnefoy… Hay Trương Vĩnh Ký, tương tác của hiền tài; Tri kiến trong thiền học Trần Nhân Tông; Từ Trần Nhân Tông đến Trần Đức Thảo v.v.
Bằng bản lĩnh tri kiến già dặn sâu sắc, tác giả đã chạm được đến được phần ẩn mật phía sau những con chữ, đó là chạm được cái phần hồn vía sâu thẳm của mỗi nhân vật mà tác giả đã chọn để chiêm nghiệm, tương tác và khai phá nó thành một hành trình du khảo xuyên suốt những trầm tích ẩn dụ tâm linh của dòng tư tưởng thi ca tuyệt đích mà hầu như chưa một ai đặt chân đến.
Ngoài những bài tiểu luận trên, thì tác phẩm Những Con Chữ Qua Cầu Tâm Linh của nhà văn Triệu Từ Truyền vẫn còn có khá nhiều bài viết về bạn bè, anh em mang tính rất thật rất đời thường. Có thể gọi đây là những con chữ tác giả đã nối thành chiếc cầu từ trái tim đến ký ức yêu thương. Mỗi con chữ tác giả viết lên đều đầy ắp sự rung cảm chân thật mà tác giả đã lưu trữ rất kỹ càng cẩn mật trong trái tim mình về chuỗi hành trình nhân sinh đầy biến động của một bối cảnh chiến tranh ly loạn tang tóc đau thương giữa những ý thức hệ đối lập ngay trong tình cảm anh em bạn bè, mà tác giả đã hóa giải được mọi phức tạp do ngoại lực áp đặt trong một thực tế đầy nghiệt ngã đa đoan, điều mà bao nhiêu người không thể tự bắc một chiếc cầu nối bằng ngữ ngôn trong trạng thái cực đoan tiểu ngã.
Với câu hỏi lửng như một khoảng trống lặng chưa có một đáp án hay không thể có một đáp án chuẩn mực Vì sao loài người làm thơ? trong bài viết cuối tập, Triệu Từ Truyền đã rất cẩn trọng khi đưa ra sự lý giải bằng một thông điệp gợi mở khá lý thú, sẽ khiến độc giả hay chính bản thân người làm thơ phải quay đầu nhìn lại những bước chân ý niệm mình đã từng đi qua cái cõi thi ca mông lung vô hạn.
“Thi sĩ làm thơ trước hết vì thỏa mãn nội giới của chính mình, nên nhiều nhà thơ quan niệm tôi làm thơ cho tôi, điều đó không sai ở góc nhìn chủ thể, nhưng hơn ai hết, thi sĩ cần biết mối quan hệ tôi và tha nhân, thi sĩ và người đọc cũng cùng một chỉnh thể thơ…”.
Thành Nội 5/3/2017
N.Q
(SHSDB24/03-2017)
Thơ Xuân của Phạm Phú Thứ (1821-1882) viết về Huế, có nhiều vì ông ở cố đô trên hai mươi năm - già nửa cuộc đời làm quan của ông.
Lê Anh Hoài là một trong số những “ca” đặc biệt nhất của văn nghệ Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Anh sáng tác trên nhiều thể loại song không gây cảm giác “khó chịu”, bởi với anh, mỗi thể loại là một thể nghiệm, gắn với một kiểu ngôn ngữ riêng, chứ không phải để thể hiện ham hố đa tài.
Bích Khê, tên thật Lê Quang Lương sinh ngày 21 tháng 2 năm Bính Thìn, tức ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, nhập tịch và trú ngụ tại Thu Xà.
(Để nhớ ngày nhà thơ đi xa - 6/7/2023)
Mùa xuân luôn là đề tài hấp dẫn, sẵn sàng đánh thức nguồn cảm hứng của bao thế hệ thi nhân. Đây có thể xem là một thực tế trong lịch sử văn học Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi một nhà thơ đều có cách thể hiện theo cảm xúc của riêng mình.
NSND La Cẩm Vân mất năm 2014. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu NSND vào năm 2015. Dưới đây là những kỷ niệm của tác giả bài viết được NSND La Cẩm Vân chia sẻ lúc sinh thời.
Trước hết, xin có vài dòng “bên lề”. Dạo này, do tuổi sắp chạm “cửu tuần”, mắt thì kèm nhèm (một mắt “cống hiến” cho các con đường từ hơn 60 năm trước, mắt còn lại, thị lực chỉ 3/10), nên ít đọc sách báo. Nhưng với tác phẩm mới của Nguyễn Quang Lập, tôi “đọc thử” hai chương rồi thấy khó buông sách vì liên tiếp bị… bất ngờ.
Trong Hoàng tử bé, Saint - Exupéry từng bày tỏ sự chiêm nghiệm: người lớn đều từng là trẻ con nhưng không mấy ai nhớ được điều đó. Người lớn có những trải nghiệm cuộc đời nên dần mất đi sự hồn nhiên ngây thơ, mất đi trí tưởng tượng phong phú…
Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.
“Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.
Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.
Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.
Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.
Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?
Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...
Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.
Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên).
(Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).
Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.