NGÔ ĐÌNH HẢI
Nhà văn Trần Áng Sơn sinh ngày 12/7/1937 tại Hải Phòng, lớn lên ở Huế, trưởng thành ở Sài Gòn, mất ngày: 18/5/ 2014.
Trước 1975, ông có thơ văn đăng trên các báo, tạp chí: Bông Lúa, Nhân Loại, Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Nam Kỳ, Tiểu Thuyết Chọn Lọc… Sau 1975, thơ văn đăng trên các báo, tạp chí: Sông Hương, Thừa Thiên Huế, Văn Hóa Huế, Văn Nghệ Nguyễn Đình Chiểu, Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh… Và in chung trong các tuyển tập: 700 Năm Thơ Phú Xuân, 1.000 Năm Thăng Long… Cuộc đời ông có gần 50 tác phẩm đã xuất bản, gồm tiểu thuyết, thơ, biên khảo, hồi ức văn chương, chân dung tác giả văn học.
Buổi sáng, tôi đến muộn, chiếc bàn cà phê quen thuộc mà chúng tôi vẫn thường ngồi với nhau đông đủ hơn mọi ngày, có một cái ghế trống, một ly cà phê đen và một nén nhang đang cháy dở, chỗ của anh Trần Áng Sơn! Anh vừa mới bỏ anh em, bè bạn chiều qua! Và chúng tôi ngồi lại, trong cái sinh hoạt cũ, vẫn cố tình coi như có anh. Vẫn nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, để như thấy anh còn ngồi đó, trầm ngâm, nói cười nhỏ nhẹ, lâu lâu góp một vài câu, nhẹ nhàng và hóm hỉnh…
Biết sinh tử là chuyện thường tình, bởi muốn mà được sao? Và cho dù chúng tôi cố tình tránh né mấy đi nữa, thì nỗi buồn vẫn cứ lan rộng, nó lãng đãng chung quanh như làn khói của nén nhang ai đó đã thắp, nó len lỏi vào trong từng con người ngồi đây, khói làm cay mắt và kỷ niệm với anh làm chúng tôi xót xa…
Trần Áng Sơn là một người trầm lặng, cái trầm lặng gai góc và chịu đựng, rất dễ thấy điều này trong tác phẩm của anh, đôi lúc nó lại làm cho những trang viết của anh phảng phất sự bỡn cợt và giễu nhại, cái bỡn cợt châm biếm và cay cay vị đời, làm cho người đọc hơi khó chịu nhưng thích thú!
Tình thân của tôi và anh cũng bắt nguồn từ những điều “khó chịu” như vậy. Anh hay gọi tôi là… “đồng hương” và… “đồng nghiệp cũ”, cái từ “đồng hương” của anh nghe còn tàm tạm dù nó có vẻ hơi kỳ cục! Chỉ là do cái nơi sinh của tôi và anh: Hải Phòng, nhưng tôi thì hoàn toàn mù tịt, vì theo thầy mẹ vào Nam từ ngày còn ẵm ngửa! Anh thì khác, anh đi mà mang theo cả một vùng trời tuổi thơ thương nhớ của mình. Những lúc ngồi riêng lẻ, anh hay kể cho tôi nghe về miền quê trong ký ức đó, nó luôn đẹp và đeo đẳng theo anh mãi! Để rồi khi in xong tập truyện “Hải Phòng, dòng sông tuổi thơ” (Nxb. Văn Nghệ - 2007), anh đem cho tôi và nói “Đọc đi!” rồi… hết! Anh ít nói tới mức làm cho người đối diện có cảm giác như anh đang để dành “sức” cho những trang viết!... Gần 50 tác phẩm đã xuất bản, cả cuộc đời Trần Áng Sơn là để cầm viết! Anh viết “khỏe” nhưng không hề dễ dãi với mình, kể cả những quyển truyện viết để mưu sinh, anh cũng gửi gắm vào đó những nghĩ suy và tình cảm rất thật…
Còn “đồng nghiệp cũ” thì khôi hài thấy rõ, tôi nhỏ hơn anh tới mười mấy tuổi, ngày anh đã thành danh thì tôi mới chập chững học đòi viết lách, lúc tôi “khoe” với anh mấy truyện ngắn đăng ở tờ Văn Nghệ Tiền Phong viết vào những năm mới 15 - 16 tuổi mà ngày đó, người phụ trách trang văn nghệ này là Lý Thụy Ý “biên tập” gần nát bét, anh đã cười, cái tiếng cười hiếm hoi và ít gặp ở anh: “Tôi cũng viết ở đó, vậy mình là… đồng nghiệp cũ rồi!”. Tôi biết anh chọc tôi nhưng tôi vui vì khó khăn lắm mới thấy anh có được những giây phút sảng khoái như thế này…
Cái đêm tôi ra mắt tập thơ “Nhỏ ơi!” sau hơn 20 năm không viết ở Cà phê Guitar Gỗ của Châu Đăng Khoa, anh khệ nệ mang tặng tôi bức tranh sơn mài to tướng, và lý do anh nói cũng rất ngắn gọn: “Ông Rừng vẽ đẹp hơn tôi!…” Thế thôi!
Buổi chiều trở về từ đám tang của anh, tôi mở lại quyển truyện dài “Thương Tích” anh tặng năm 2012, đọc lại cái đề tựa của anh “…Những gì tôi nhìn, tôi thấy, tôi nghe, chỉ là một phần của nửa sự thật ở phía bên này… Nhưng nước mắt là của quê hương tôi… Trong tiểu thuyết tất cả đều hồi sinh để đi nốt chặng đường cuối cùng của thân phận… Đã có một thời như thế…” …Ở phần đề tặng anh viết: “Thân tặng Ngô Đình Hải, xin ghi nhận và cám ơn!”… Và tôi khóc! Khóc vì nhớ tới cái khí khái và nghĩa tình của anh, tôi có làm được gì cho anh đâu, ngoài câu nói thật lòng: “In đi anh, tôi muốn đọc và tôi tin mọi người cũng muốn đọc!…” Chỉ có vậy mà anh cũng nhớ…
Ôi! Ông anh tôi!... Ôi! Cái tháng năm nghiệt ngã!... Ở những ngày này của tháng năm. Một vài cơn mưa nhỏ bất chợt của Sài Gòn không xua đi được cái nóng cháy da khi ra đường, cuộc sống hối hả và quay cuồng với đủ mọi thứ cơm áo, càng làm cho hơi thở oi bức và ngột ngạt hơn. Cái tháng năm làm cho tôi ghét tôi hơn bao giờ hết! Nó thôi thúc, nó làm sống lại những kỷ niệm, và nó làm tôi đau vì mất bạn… Tháng năm năm ngoái, tôi vĩnh biệt thi sĩ Đoàn Vĩnh Phúc trong những giọt nước mắt của bạn bè, và khuôn mặt ngây ngô chưa biết gọi cha của đứa bé con anh… Rồi ở tháng năm này, tôi sẽ còn ngồi, còn phải đối diện với cái chỗ trống không của nhà văn Trần Áng Sơn ở quán cà phê quen thuộc, vẫn ra vào nhìn bức tranh hình con diều lơ lửng treo giữa nhà, mà tự trách mình sao ngu ngốc không nhìn thấy quỹ thời gian hạn hẹp của anh… Tôi ghét phải viết những dòng chữ này biết chừng nào, thứ ngôn từ nhỏ nhoi và vô nghĩa với cái tình của Trần Áng Sơn cho tôi… Xin cho tôi được cảm ơn tấm lòng của bạn bè gần xa và… Lạy Trời! Xin cho những câu chữ ngô nghê này của tôi như một nén hương lòng thắp lên cho anh, xin cho đời còn ấm mãi một cái tên, cái tên của một người dù với hơn 40 truyện ngắn dài, vẫn còn ở trong “cơn mộng du của thi ca”…
Trần Áng Sơn khó tính ai cũng biết. Không phải khó với mọi người mà là khó với chính mình, khó với câu chữ của mình. Dù làm thơ, hay viết văn anh đều viết với sự cẩn trọng và trung thực. Và cũng chính cái trung thực đó đã làm thành những “gợn sóng” khi anh viết “Những trang sách khép mở” (Nxb. Trẻ - 2002), 3 tập sách với gần 100 khuôn mặt văn nghệ miền Nam, một vài người được anh nhắc đến có đôi chỗ không hài lòng, nhưng biết sao được, Trần Áng Sơn là thế! Giờ thì không còn cơ hội nữa… Trang sách đời của anh đã vĩnh viễn khép lại! Cũng như tôi vĩnh viễn mất đi một người anh, một người bạn văn nghệ chí tình! Nhưng tôi tin rằng những trang sách thực của anh vẫn còn trong lòng người đọc, nó sẽ còn được mở ra bởi bạn bè và những người yêu mến anh… như cái “tuyên ngôn thơ” của anh: “Tất cả đều sẽ qua đi, chỉ duy nhất cái tình là còn mãi”… Mãi mãi… Vĩnh biệt anh!… Trời ơi!… Sao tôi nhớ và thương anh quá đỗi!
N.Đ.H
(SDB13/06-14)
Vậy là tròn một năm kể từ sớm đông ấy Nguyễn Xuân Hoàng giã biệt cõi trần khi Huế còn chìm trong sương giá. Chỉ vỏn vẹn 99 ngày gắn bó, nhưng anh là nỗi ray rứt giữa lúc Sông Hương đang ẩn hình những ngọn sóng... Lật giở hơn ngàn trang bản thảo của anh, mấy ai không giật mình trước sự cay cực đến xót xa để có được một đời văn bình dị?Giỗ đầu, bạn bè và đồng nghiệp Xuân Hoàng đã cùng với Sông Hương thắp lên nén nhang tri ngộ...(Nguyễn Khắc Thạch - Lê Văn Chương - Hoàng Diệp Lạc - T. E - Nguyễn Trương Khánh Thi - Đinh Thu - Ngàn Thương - Trần Hạ Tháp - Nhất Lâm)
NGÔ MINHTrong những bài viết trước, chúng tôi đã hé lộ đôi chút về những mối tình sau này của Phùng Quán. Lần này lại một mối tình nữa, mà hình như là mối tình đầu ly kỳ hơn đã được Phùng Quán tự kể và chị Bội Trâm phát hiện ra.
HOÀNG VŨ THUẬT Chưa ai để ý đến đâu Cây đứng khép mình lặng lẽ... (Cây lặng im)
NGUYỄN KHẮC PHÊMột chiều Xuân bên sông Hương. Mặt trời suốt ngày ẩn sau lớp mây xám nhạt nay đã khuất hẳn dưới dãy Kim Phụng xanh thẫm nhấp nhô đằng xa ở bên kia bờ. Một chiếc thuyền từ phía Ngã Ba Tuần hối hả xuôi dòng, tiếng máy nổ khuấy động giây lát mặt sông phẳng lặng trong màn sương chiều mờ ảo bắt đầu buông xuống.
NGÔ MINHMỗi nhà văn có một “gu” ẩm thực riêng, không lẫn. Vũ Bằng, Nguyễn Tuân sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nên rất sành ăn và viết rất hay về các món ăn tinh tế và đài các của Thủ Đô. Nhà văn Phùng Quán cũng có một cá tính ẩm thực rất đặc biệt.
TRỊNH THANH SƠN A. Anh là hoạ sĩ, Nghệ sĩ ưu tú của ngành sân khấu, lại còn là một nhà thơ, nhà viết kịch, nhà báo xông xáo... Ngần ấy công việc anh sắp xếp bố trí theo thời gian như thế nào và anh dành quyết tâm cho việc nào hơn cả?
XUÂN ĐÀI(Trích ký sự)Trong gần mấy trăm vòng hoa viếng Phùng Quán, có một vòng hoa rất đặc biệt. Đó là vòng hoa của "những người câu cá trộm" cư ngụ ở những làng dọc đê Yên Phụ, chủ yếu là làng Nghi Tàm, xã Quảng An, Hà Nội. Kèm theo vòng hoa là một phong bì phúng điếu mà số tiền gấp đôi tiền phúng điếu của cơ quan Hội Nhà văn Việt .
NGUYỄN TRỌNG HUẤN(Mười năm Kỷ niệm... Một cuộc rong chơi)Trong quan hệ bè bạn lâu năm, có lẽ chưa lần nào chúng tôi có với nhau một cuộc rong chơi đã đời và thú vị như lần ấy. Mà hình như đấy là cuộc đi cuối cùng của Quán trong cõi đời này. Còn những cuộc du hí tiếp theo ở thế giới bên kia với những ai thì cho đến bây giờ tôi cũng không được rõ lắm.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrong câu chuyện vui của giới văn nghệ sĩ trước những công việc có tính chất tổng kết, phân loại đội ngũ, một số người được anh em phong tặng danh hiệu “nhà-thơ-một-bài”, “nhạc-sĩ-một-bài”...
LTS: Do đặc trưng nghề nghiệp nên mỗi nhà văn đều có thiên chức một nhà giáo. Bởi vậy, những người vừa là nhà giáo vừa là nhà văn thì đều có thể gọi họ là những nhà giáo kép.Nhân ngày nhà giáo Việt Nam, Sông Hương trân trọng giới thiệu một số ý kiến của các nhà giáo "kép" ở Huế nói về cái nghiệp dĩ riêng mang tính xã hội cao của họ.
HỒ THẾ HÀTrại sáng tác Văn học nghệ thuật năm 2002 do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức từ ngày 27 - 8 - 2002 đến ngày 6 - 9 - 2002 đã thành công và để lại những trang viết giàu ấn tượng về cuộc sống và con người, đặc biệt là cuộc sống và con người Phú Thuận, Phú Vang - vùng quê có nhiều truyền thống và tiềm năng văn hoá vật chất và phi vật chất vừa trải qua một nỗi đau lớn do thiên tai gây ra.
ĐẶNG NHẬT MINHNhững ngày đầu tiên khi bước chân vào con đường sáng tác điện ảnh tôi đã may mắn có nhà văn Hoàng phủ Ngọc Tường ở bên cạnh.
TRẦN HUY THANHTừ ngày 1 đến 15/7/2002, được sự giúp đỡ của Bộ Văn hoá Thông tin, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã cử đoàn văn nghệ sĩ đi dự trại sáng tác văn học nghệ thuật tại Nhà sáng tác Vũng Tàu.
NGUYỄN KHẮC PHÊBạn đọc cả nước - nhất là những ai quan tâm đến lịch sử và tiểu thuyết lịch sử - hẳn đã biết Nguyễn Mộng Giác là tác giả bộ tiểu thuyết trường thiên “Sông Côn mùa lũ” (SCML) 4 tập, 2000 trang viết về thời Tây Sơn-Nguyễn Huệ (NXB Văn học-Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998).
"Những bức tranh sơn thủy đầu tiên đã chiêu đãi chúng tôi quýt cam và bánh mỳTrưa no nê nhìn phố xá trăm màu.Tối tìm chỗ ngủ lang thang nhớ mẹ".
Sau ngày thất thủ Kinh đô (Huế), vua Hàm Nghi xuất bôn hạ chiếu Cần Vương kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp. Sau ba năm chiến đấu ở rừng sâu, vua Hàm Nghi bị Trương Quang Ngọc làm phản bắt vua nộp cho Pháp. Để cách ly ngọn cờ yêu nước với quốc dân Việt Nam, cuối năm 1888, thực dân Pháp đã lưu đày vua Hàm Nghi qua Algérie thuộc Pháp. Không hy vọng có ngày được trở lại Việt Nam, nên vua Hàm Nghi đã lập gia đình tại Algérie rồi 40 năm sau ông mất ở đó.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGPhương mất đột ngột ở Quảng Trị. Nghe tin anh ra đi, bạn bè văn nghệ Huế không bàng hoàng, cũng không cảm thấy sửng sốt. Chỉ thấy lòng bùi ngùi, như khi ta nhìn thấy một ngôi sao chưa bao giờ sáng bỗng một ngày tắt lịm trong lặng lẽ.
LTS: Phan Đăng Lưu là một nhà cách mạng tiền bối, tiêu biểu của Đảng từng hoạt động ở Huế và có ảnh hưởng lớn đến trí thức văn nghệ sĩ yêu nước thời bấy giờ. Chính nhà thơ Tố Hữu cũng đã thổ lộ điều đó trong bài thơ Quê me (Anh Lưu anh Diểu dạy con đi).Nhân 100 năm ngày sinh Phan Đăng Lưu (5.5.1902 – 5.5.2002), Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số tư liệu về đồng chí, đặc biệt là bức Thư viết từ khám tử hình – bức thư mang đặc trưng "đa nghĩa" của một tác phẩm văn học nên nó đã vượt qua được sự kiểm duyệt khắt khe của kẻ thù.
PHÙNG QUÁN... Vì vậy mà có sự rung động bí mật của ý nghĩ, khiến nhà bác học trở thành người thần bí, và thi sĩ thành đấng tiên tri. (Victor Hugo - Lao động biển cả).
NGUYỄN QUANG HÀRa Hà Nội mùa thu này tôi muốn đến thăm anh Lê Khả Phiêu. Những ngày anh đương chức, đến, người ta nghĩ mình cơ hội. Nhưng nay anh đã nghỉ, đến thăm là nghĩa tình đời. Lòng mong muốn ấy của tôi, được anh chấp nhận và hẹn giờ gặp.