Như chúng tôi đã đưa tin, việc tìm kiếm lăng mộ Vua Quang Trung đang được các giới nghiên cứu ở Huế tiến hành. Dưới đây Sông Hương xin tiếp tục giới thiệu một luận cứ mới mà các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu văn hóa Huế mới phát hiện. Bài viết do anh Phan Thuận An, một thành viên của Trung tâm thực hiện.
S.H
Trích lại từ BAVH 1-6/1935. Chùa Thiền Lâm nằm gần ấp Bình An - Ảnh: internet
Vừa qua, chúng tôi, một số thành viên thuộc Trung tâm nghiên cứu Văn hóa Huế gồm có Nguyễn Đắc Xuân, Võ Xuân Trang, Đỗ Bang, Hồ Tấn Phan, Trần Đại Vinh, Phan Thuận An, v.v... đã đến khảo sát thực địa một khu di tích kiến trúc cổ, hay nói đúng hơn, một khu phế tích, do một người địa phương là anh Nguyễn Hữu Oánh (49 tuổi) báo cho biết. Chúng tôi đã thu lượm được một số kết quả bước đầu đầy khích lệ.
Tính theo đường chim bay, khu di tích ấy nằm cách bờ Sông Hương khoảng 1 km về phía nam, và cách đường Nam Giao (nay là đường Điện Biên Phủ) chừng 150m về phía tây; ở triền phía nam và tây nam của một ngọn đồi cao hơn 20m. Quanh khu vực đó có những ngôi chùa nổi tiếng ở Huế, như chùa Thiền Lâm, chùa Từ Đàm, chùa Báo Quốc, chùa Kim Tiên… Gần đó còn có chùa Vạn Phước. Trước đây, khu vực ấy thuộc làng Bình An, làng Bình An nhập chung vào xã Thủy Trường thành ra phường Trường An. Cho nên chúng tôi tạm đặt tên cho khu di tích này là khu di tích Bình An.
Bà con ở đây cho biết rằng xưa nay hễ khi nào đào đất để dựng cột nhà, xây móng, trồng cây, làm vườn... Cũng đều đụng phải những nền móng xây bằng vôi vữa và gạch, đá ở dưới mặt đất, và còn thấy cả chân tường thành nằm lộ trên mặt đất nữa. Chúng tôi được dẫn đi xem một số gạch vỡ, những viên đá thanh và đá kê chân cột nhà đang nằm rải rác đó đây. Đáng để ý nhất là chỗ đào trong sân anh Oánh (60/13 Điện Biên Phủ), sát với nền nhà người chị ruột của anh ấy là bà Nguyễn thị Liên (năm nay 65 tuổi).
Cả hai chị em đều cho biết rằng lúc họ còn nhỏ, vào năm 1945, khi máy bay Đồng Minh ném bom đánh quân đội Nhật chiếm đóng ở Huế, họ được bố mẹ đưa xuống trú ẩn ở một cái huyệt mộ lớn, gọi là khuôn tỉnh, xây bằng vôi và đá thanh, không còn hài cốt. Sau đó các cụ đào bới những tấm đá thanh rất lớn tại đây để bán và để tặng cho chùa Vạn Phước ở gần nhà. Trong khi đào đất để xây móng làm nhà, các cụ cũng đã gặp một hầm gạch vồ chưa sử dụng. Họ dùng số gạch vồ đó để xây nhà. Vào năm 1983, anh Oánh làm lại nhà theo kiểu mới. Vì thấy trước đó trong gia đình xảy ra những điều bất hạnh (chẳng hạn, hai anh em trai của anh đã chết), anh đã tháo dở tất cả gạch cũ và đá lát đem cúng cho chùa Vạn phước.
Nghe kể như vậy, chúng tôi đào thử ở chỗ anh Oánh nhớ là có cái khuôn tỉnh. Đào xuống chừng 0,50m thì gặp móng xây bằng vôi hàu như ở hai vị trí kia, nhưng ở đây móng dày và chắc chắn hơn. Đào xuống độ sâu 1,50m vẫn chưa đến chân móng, về chiều dài, chúng tôi đào 3m dọc theo chân móng nhưng vẫn chưa tới chỗ tận cùng nào.
Khi nghe chúng tôi bàn với nhau đây có thể không phải là cái huyệt mộ, bà Liên bảo rằng đó chỉ mới là một phần bên ngoài cái quách, còn chỗ đặt cái quan, tức là cái hầm tránh bom trước kia, nay đang nằm ở ngay dưới cái nền xây bằng xi măng của nhà bà. Chúng tôi đành phải tạm ngưng việc đào thám sát cái huyệt mộ ở đây, vì muốn đào thêm nữa để tìm cho ra điều mà chúng tôi nghe kể thì phải triệt giải cả ngôi nhà ấy, hoặc ít nhất cũng phải áp dụng những phương tiện kỹ thuật nằm ngoài khả năng của anh em trong nhóm nghiên cứu chúng tôi.
Trước mặt khu vực tìm thấy móng thành ấy, về phía đông nam, ngay dưới chân đồi, bà con địa phương chỉ cho chúng tôi thấy một cái hồ khá lớn đang cạn dần. Họ cho biết ngày xưa ở hồ này trồng nhiều sen, và bên cạnh còn có một cái giếng nay đã bị lấp. Chúng tôi nghi rằng cổ nhân đã dùng mặt nước hồ ấy để làm "minh đường" cho công trình kiến trúc trên sườn đồi.
Đứng từ khu di tích nhìn qua hồ, chúng tôi thấy đỉnh núi Thiên Thai cách xa ba km, dường như đã được dùng làm "tiền án " cho công trình kiến trúc. Trục chính của nó án chừng ở trong vị thế "tọa càn hướng tốn", nghĩa là chạy theo hướng tây bắc - đông nam.
Ở gần hồ còn có một dòng nước, gọi là khe Chùa Tiên (tức là chùa Kim Tiên tọa lạc gần đó) chảy từ trái sang phải, ngang qua trước mặt khu vực di tích. Chúng tôi đã nhờ anh Dương Văn Sinh, một trong những người có nghiên cứu về thuật phong thủy ở Huế, đến khảo sát địa cuộc tại đây. Sau khi tìm hiểu thực địa, anh đã nhận ra một số yếu tố phong thủy khác nữa của khu di tích, như tay long bên trái (thuộc hành mộc), tay hổ bên phải (thuộc hành kim), và "hậu chẩm" là phần sau của ngọn đồi chạy lan xuống đến gần bờ sông Hương (thuộc hành thủy). Anh cho rằng địa cuộc này hội đủ các yếu tố địa lý phong thủy để người xưa chọn lựa khi xây dựng công trình kiến trúc gì đó cho hàng vương giả.
Mặt khác, khi đến chùa Vạn Phước (60/14 Điện Biên Phủ); chúng tôi thấy ở đây còn giữ được khá nhiều vật liệu kiến trúc cổ mà gia đình anh Oánh đã cúng cho chùa. Trong hai tấm đá thanh lớn mà ngày xưa thân phụ anh Oánh đã biếu cho chùa, hiện nay nhà chùa còn bảo lưu được một tấm nguyên vẹn, dài 2,72m, rộng 0,67m, dày 3,5cm, đang kê làm cái bàn. Hơn 160 viên đá thanh cỡ nhỏ, mặt hình vuông, mỗi bề 30cm, dày khoảng 3cm, đã được lát trên lối đi từ bên trái sân chùa vào đến nhà tăng, nay vẫn còn tốt. Số gạch khá nhiều ngày trước anh Oánh tặng cho chùa, nay đã được nhà chùa dùng để xây tường vách nhà ngang, ở chùa còn có một số viên đá thanh với những kích cỡ khác nhau đang nằm lăn lóc ở góc sân, thềm cửa.
Rảo khắp các triền đồi quanh chùa Vạn Phước, chúng tôi thấy có một cái giếng rất sâu và rất cổ, xây bằng đá. Bà con địa phương cho biết xưa nay giếng này được gọi là "Giếng loạn". Ở gần đó cũng có nhiều mồ mả cá nhân và tập thể, họ gọi là "Mả loạn". Nhà Nguyễn đã dùng chữ "loạn" để chỉ thời Tây Sơn chăng? Ngay địa danh Bình An cũng đáng quan tâm tìm hiểu, vì từ đầu thế kỷ XIX trở về trước, cái tên này chưa thấy sử sách nào ghi cả. Có thể nó đã được thời Gia Long đặt ra để thay cho một tên cũ gì đó của làng này với ý nghĩa đã dẹp yên Tây Sơn hoặc đã phá bỏ một công trình kiến trúc nào đó của Tây Sơn tại đây, như trường hợp đổi tên ấp Tây Sơn thành ấp An Tây, hoặc đổi tên Quy Nhơn thành ra Bình Định.
Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi chép về 40 ngôi chùa nổi tiếng nhất ở Thừa Thiên. Nhưng, trong số đó đã có đến 7 ngôi chùa nằm trong địa phận ấp Bình An: chùa Kim Tiên, chùa Tuệ Lâm, chùa Từ Đàm, chùa Viên Giác, chùa Thiền Lâm, chùa Tịnh Độ, chùa Pháp Võ (1). Bình An chỉ là một trong hơn 450 đơn vị xã thôn phường ấp của Thừa Thiên thời bấy giờ (2). Thế mà số chùa ở Bình An đã chiếm đến tỷ lệ 7/40 so với tất cả. Điều này chứng tỏ đất Bình An xưa là một vùng yên tĩnh với cảnh lâm tuyền đẹp đẽ đầy vẻ tiêu sái, thích hợp cho việc xây dựng chùa chiền để các nhà sư tu hành, và cũng thích hợp cho việc kiến trúc lăng mộ để cố nhân an giấc nghìn thu. Hiện nay, trước mặt một ngôi mộ xây bằng đá ở ngọn đồi ấy có để câu đối rất phù hợp với cảnh vật tại chỗ:
Ngay chùa Từ Hiếu soi lòng Phật
Lên cõi Bình An mến cảnh tiên.
Ngay từ năm 1795, Hoà thượng Thạch Liêm cũng đã miêu tả phong cảnh thanh thoát ở vùng này qua những bài thơ "Thiền Lâm tức sự" khi ông đang lưu trú tại chùa Thiền Lâm:
Phương trượng ba gian lợp bạch mao,
Đồng xanh nửa mẫu tiếp gò cao..,
Một tiếng khánh vàng buông ngõ trúc.
Đôi dòng nước biếc tưới ven biền...(3)
Có lẽ vì lý do môi trường tịch mịch ấy, cho nên dưới thời Cảnh Thịnh (1793 - 1801), Thái sư Bùi Đắc Tuyên đã dùng chùa Thiền Lâm làm nơi ở và làm việc. Các sử sách của Quốc Sử Quán triều Nguyễn như Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Liệt Truyện, Đại Nam Nhất Thống chí đều ghi rõ Bùi Đắc Tuyên đã chiếm ngự tại chùa Thiền Lâm (4).
Phải chăng việc làm đó của vị Thái sư còn có lý do thứ hai là để được gần gũi vong linh của "tiên hoàng"?
Những nguyên dẫn và nguyên chú trong một số bài thơ của Phan Huy Ích (1751-1822) và Ngô Thời Nhậm (1746- 1803) cho phép chúng ta nghĩ rằng cung điện Đan Dương và lăng Đan Dương của vua Quang Trung là ở gần chùa Thiền Lâm.
Dưới bài thơ "Xuân để kỷ sự" (Mùa xuân ở cung quán ghi việc), Phan Huy Ích đã viết lời nguyên dẫn như sau:
"Nhà của quan Thái sư (Bùi Đắc Tuyên) là chùa Thiền Lâm cũ, nằm phía nam Sông Hương, nha thuộc cũng theo đến ở chung quanh chùa. Giữa tháng ba, tôi tới nhà trọ kinh đô, cũng gần nơi ông ở. Chỗ này vườn thật rộng rãi, cây cối xanh um, bốn bề những núi cùng mây, mắt nhìn lòng nghĩ cũng khá thoải mái, trừ những đêm họp bàn việc công ra, còn thì tha hồ ngâm thơ uống rượu, kể cũng thú..." (5).
Và dưới bài thơ số 226 của ông, chúng ta lại đọc được lời nguyên chú:
"Lúc bấy giờ bọn tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu"(6).
Lăng nói đến trong câu nguyên chú này là lăng nào? Phải chăng đó là lăng vua Quang Trung?
Theo Ngô Thời Nhậm, lăng Quang Trung mang tên là lăng Đan Dương. Trong bài thơ "Đạo ý" của ông có câu:
Đỉnh hồ phiếu diểu vọng Đan Dương
(Núi Đỉnh Hồ, xa thăm thẳm, nhìn lăng Đan Dương)(7).
Rồi trong bài "Cảm hoài" của mình, Ngô Thời Nhậm ghi chú:
"Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y Tiên hoàng ta..."(8).
"Sơn lăng" là lăng tẩm của vua chúa. "Bảo y Tiên hoàng ta" nghĩa là quan tài của vua Quang Trung.
Như vậy, tại lăng vua Quang Trung còn có điện thờ. Đó là nguyên tắc kiến trúc lăng tẩm của các vua thời trước. Nghĩa là, ở cạnh lăng vua Quang Trung, còn có những công trình kiến trúc phụ thuộc, bao gồm các nhà cửa lớn nhỏ: điện lớn để thờ, nhà nhỏ để những người lo thờ phụng hương khói, như tiểu giám chẳng hạn, ăn ở. Do vậy, lăng vua Quang Trung phải chiếm một khu vực khá rộng, và khu vực ấy phải gần chùa Thiền Lâm.
Trong khi đó thì, như chúng ta đang thấy hiện nay trên thực địa, khu di tích Bình An lại nằm rất gần ngôi chùa ấy.
Tuy nhiên, vì mới khảo sát bước đầu, chưa có được cứ liệu đầy đủ và chính xác nên chúng tôi không dám vội vàng khẳng định đây là phế tích của lăng vua Quang Trung. Chúng tôi chỉ đưa ra một "giả thuyết công tác" theo dự cảm để tiếp tục tìm hiểu mà thôi. Nhưng, với một số kết quả gặt hái được trong bước đầu khảo sát thực địa, và với những tín hiệu khả quan như thế, chúng tôi nghi rằng khu di tích Bình An là khu di tích thuộc thời Tây Sơn. Chúng tôi đang có được trong tay gia phả của dòng họ khai canh làng Bình An và quyển địa bộ của làng mà dòng họ khai khẩn đang giữ, để nghiên cứu thêm về một số khía cạnh khác của vấn đề.
Dù sao, chúng tôi cũng đã và đang làm công việc khảo cứu này theo chỉ dẫn và định hướng khá rõ của người xưa: kể cả các nho thần của Quốc sử Quán triều Nguyễn, lẫn hai đại thần nhà Tây Sơn qua sử sách và thơ văn của họ.
Trong khi chờ đợi một nhóm công tác (working Group) nào đó do chính quyền thành phố Huế thành lập để thực hiện động tác quan trọng nhất là khai quật di tích trên thực địa, chúng tôi rất mong mọi người quan tâm góp ý, góp sức để công việc tìm hiểu thêm về khu di tích Bình An mang lại nhiều thành quả tốt đẹp hơn.
P.T.A
(Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Huế)
(SH37/05&06-89)
----------------------
(1) ĐNNTC, Thừa Thiên phủ, bản dịch của Nguyễn Tạo, Nhà Văn Hóa xuất bản, Sài Gòn, Tập thượng, trang 86 - 90.
(2) Danh sách xã thôn Trung Kỳ, lập vào nửa đầu thế kỷ XX. ronéo, không đề năm xuất bản; tư liệu của Công ty Di tích.
(3) Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, bản dịch của Ủy Ban phiên dịch Sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế xuất bản, Huế, 1963 trang 41-42.
(4) Đại Nam thực lục, bản dịch Viện Sử Học Tập II, Hà Nội, 1963, trang 24.
- Đại Nam chính biên Liệt truyện, Sơ tập, quyển 30, nhà Tây sơn, bản dịch Tạ Quang Phát, Sài Gòn, 1970, trang 184 - 185.
- Đại Nam Nhất Thống chí, bản dịch đã dẫn, trang 88.
(5) Thơ văn Phan Huy Ích, tập II Hà Nội, 1978 trang 85 - 86.
(6) Sách vừa dẫn, trang 124.
(7) Tuyển tập thơ Ngô Thời Nhậm, quyển I, Hà Nội 1978, trang 196.
(8) Sách vừa dẫn: trang 337 - 338.
L.T.S: TCSH nhận được bài này, đang chờ đưa in vào số thích hợp thì một tờ báo trong nước trích đăng; chúng tôi đành phải gác lại. Nay theo yêu cầu của tác giả, chúng tôi xin đăng nguyên bản.
Điện Voi Ré tọa lạc tại làng Trường Đá thuộc xã Thủy Biều, cách trung tâm thành phố Huế 4km về phía Tây Nam. Nếu đi bằng phương tiện xe máy hay ô tô là chỉ mất năm phút.
LÊ ĐÌNH PHÚC
HỒ VĨNH
Bất luận một triều đại nào, quân đội là một tổ chức quan trọng cho bộ máy của triều đại ấy. Thiết chế quân sự dưới thời triều Nguyễn cũng có qui cách và lớn mạnh.
NGUYỄN ANH THƯ
Trước khi hẹn gặp ông Hồ Tấn Phan lần đầu tiên vào năm 2008, tôi đã được đọc nhiều bài viết về “vua đồ cổ xứ Huế”, “người gõ mẻ sành kham nhẫn nhất xứ Huế” “người đọc sử dưới đáy sông Hương”… Dù tiếp cận dưới góc độ sưu tầm cổ vật hay bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc, điều dễ nhận ra là bài viết nào cũng dành không ít lời ca ngợi và thái độ khâm phục với ông Hồ Tấn Phan, một thầy giáo lại dành hơn nửa đời mình cho những cổ vật vớt từ dưới đáy sông Hương và các dòng sông ở Huế. Những bài viết về ông Hồ Tấn Phan cũng như sưu tập cổ vật “có một không hai” ở xứ Huế quả thực đã khơi gợi sự tò mò, quan tâm và hứng thú, thôi thúc tôi chọn Huế là điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến khảo sát các di tích khảo cổ học Champa ở miền Trung Việt Nam.
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Sau khi vào Nam, chúa Tiên - Nguyễn Hoàng đóng dinh ở Ái Tử, trong vòng mấy chục năm mà “Đoan quận công có uy lược, xét kỷ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp”(1).
Ngày 3/4, Bộ Cổ vật Ai Cập thông báo đã phát hiện di tích một kim tự tháp Ai Cập được xây dựng cách đây khoảng 3.700 năm trước tại huyện Dahshur, thuộc khu vực Giza.
Chiều 29-3, Sở VH-TT-DL tỉnh Quảng Ngãi cùng Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đoàn Ánh Dương tổ chức cuộc họp bàn các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Sa Huỳnh.
Chùa Thanh Mai nằm ở xã Hoàng Hoa Thám, thị xã Chí Linh (Hải Dương) là một trong những trung tâm Phật giáo Thiền phái Trúc Lâm thời nhà Trần, nơi gắn với tên tuổi Đệ nhị tổ Pháp Loa. Chùa Thanh Mai còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ quý giá, trong đó có tấm bia “Thanh Mai Viên Thông tháp bi” được tạo khắc từ thời nhà Trần, thế kỷ 14. Mới đây, tấm bia đã được công nhận là “Bảo vật quốc gia”.
Sự xuất hiện của đồng tiền Minh Đức thông bảo trong đồ tùy táng của bà Châu Thị Vĩnh Tế (vợ ông Thoại Ngọc Hầu) là một hiện tượng lạ, gây bất ngờ cho các nhà khoa học.
Bà Châu Thị Vĩnh Tế mất trước ông Thoại Ngọc Hầu 3 năm (bà mất năm 1826, ông mất năm 1829), tuy nhiên vẫn chưa rõ tài sản của ông và bà được chôn cùng lúc hay chôn riêng rẽ theo đám tang từng người.
Đã có nhiều tác phẩm viết về sự nghiệp và công lao của Thoại Ngọc Hầu, tuy nhiên cuộc sống đời thường của ông ít ai biết.
37 cuốn sách cổ bằng văn tự Hán Nôm cổ, quý hiếm được viết và in dập trên chất liệu giấy dó, một số sách viết, in theo lối chữ Chân.. đang được lưu giữ tại một nhà dân ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh cất giữ.
Ngày 22/11, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai tổ chức lễ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ và đón nhận bằng xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt di chỉ khảo cổ mộ cự thạch Hàng Gòn và bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia Văn miếu Trấn Biên.
Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du đã phát hiện cuốn sách cổ có niên đại 163 năm trước, liên quan đến đến dòng họ Nguyễn - Tiên Điền.
Bản thảo cổ nhất của người Ai Cập viết trên da thuộc đã được phát hiện trên kệ sách bảo tàng ở thủ đô Cairo, nơi nó được lưu giữ và chìm vào lãng quyên cách đây hơn 70 năm.
Mới đây giới khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy hài cốt 4.000 năm tuổi của một bà mẹ đang ôm chặt đứa con. Vào thời điểm ấy, ở đây đã xảy ra một trận động đất dữ dội.
Tiến sĩ Nicholas Reeves, nhà khảo cổ người Anh thuộc trường Đại học Arizona, vừa tuyên bố ông đã tìm thấy lối vào bí mật dẫn đến phòng an táng Pharaoh Tutankhamun và đằng sau đó là mộ của Nữ hoàng Nefertiti lừng danh.