HỒ VĨNH
Bất luận một triều đại nào, quân đội là một tổ chức quan trọng cho bộ máy của triều đại ấy. Thiết chế quân sự dưới thời triều Nguyễn cũng có qui cách và lớn mạnh.
Cửu vị thần công - Ảnh: huexuavanay
Song để muốn tồn tại lâu dài, vũ khí đóng vai trò quan trọng trên phương diện phòng thủ. Cho nên, từ thời Gia Long đến thời Tự Đức, nhà Nguyễn đã cho đúc hàng loạt súng thần công đủ loại để bố phòng khắp các tỉnh, thành trong cả nước.
Các thông số đúc súng thần công qua các triều: Gia Long năm thứ 2 (1803), nhà vua cho đúc: "Cửu vị thần công"; năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đúc 300 khẩu thần công mang tên "Võ công tướng quân"(1). Năm 1830 đúc thêm súng gang có tên "Hồng Y" 400 cổ (hạng nặng 200 cổ, hạng vừa 200 cổ) hạ lệnh ở Kinh đô Huế đúc 200 cổ, Bắc Thành đúc 200 cổ. Sau đó qui định cách dùng thuốc súng thế nào cho các hạng súng đồng có khẩu kính (miệng nòng súng) 5 tấc 2 phân, bắn mỗi phát cần phải có 20 cân thuốc súng(2). Năm 1834, vua Minh Mạng ra lệnh cho Nội các rằng: "Những hương dõng thao luyện, cần sao tất cả đều được tinh khỏe, để trở thành một đạo quân giỏi, trong đó mỗi người lính phải ra người lính, thì các ngươi mới không phụ sự ủy thác của ta". Thế rồi quy định thành điều lệ cho thi hành. Mỗi vệ binh thao luyện là 500 người, phủ Thừa Thiên 3 vệ, đặt tên là Kinh binh Trung vệ, Kinh binh Tả vệ và Kinh binh Hữu vệ(3). Dưới triều Tự Đức, năm 1872, nhà vua ra lệnh tỉnh Nghệ An đúc 500 khẩu thần công, 2000 khẩu súng điểu thương (súng cá nhân)(4) rồi dời công trường giã thuốc súng bằng sức nước ở xã Lại Bằng lên xứ thác Ông ở dòng trên (thuộc huyện Hương Trà)(5)
Qua những dẫn liệu trên, chứng tỏ nhà Nguyễn rất chú trọng về mặt quốc phòng. Tuy nhiên, dưới triều Tự Đức chiến tranh và loạn lạc nổi lên khắp nơi, số lượng súng thần công đúc ở các tỉnh phía Bắc được lệnh điều về Võ khố (kho vũ khí tại Kinh đô). Một điều cần nhấn mạnh, súng thần công tại Huế (trước năm 1885) có 812 khẩu súng các loại đã bố trí khắp các pháo đài ở kinh thành, và 1.600 súng tại võ khố còn niêm kho. Sau biến cố 1885, tất cả số súng trên đã bị binh đội Pháp triệt hạ và phá hủy.
Trong bài tham luận "Đôi nét về văn hóa nghệ thuật Nguyễn" có nói 24 khẩu thần công ở Huế(6). Nhưng thực ra qua khảo sát hiện còn 41 cỗ súng nằm rải rác trong và ngoài Kinh thành Huế, thậm chí có súng mang chữ số và ký hiệu của Hà Lan, Pháp... (xem bảng thống kê).
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát hệ thống phòng thủ dọc hai bên bờ sông Hương cho đến tận cửa Thuận An. Rất tiếc là không một chiến lũy nào để lại dấu tích (khoảng 10 chiến lũy). Sử liệu cho biết: "ngược về Huế, trước khi xuôi về Tây Bắc, giữa làng Qui Lai và Thuận Hòa, sông Hương rất rộng và nông, ghe lớn đi lại phải biết rất rõ ràng dòng lạch. Các quan có lý khi cho rằng các pháo hạm buộc phải giảm tốc độ. Vì thế họ thấy cần tăng cường phòng thủ quãng sông này bằng một cụm hào lũy được thiết kế tốt"(7). Cũng trong kế hoạch bố phòng cho các chiến lũy này thì tháng 6 năm Tự Đức thứ 13 (1860) ông Trần Tiễn Thành và Thống chế Nguyễn Duy Thăng lại trình một bảng tâu mới, trong đó họ xin 30 khẩu pháo cho đồn vuông ở Thuận An (đồn Hà Nhuận), 7 khẩu pháo cho đồn Vương Hòa Duân, 10 khẩu oanh sơn, 10 khẩu mỗi loại trong các loại súng Đăng Uy, Thắng Uy và Chấn Uy, 10 khẩu Võ Công, 20 khẩu Thành Công để bổ sung cho chiến lũy Hạp Châu và trang bị các lũy cát mới ở Thuận An và Hòa Duân...(8). Sau khi hòa ước Giáp Thân (1884) ra đời thì tất cả các hệ thống phòng thủ, đồi lũy dọc sông Hương đã bị triệt bãi. Hiện nay tại ngã ba Sình chỉ còn lại một khẩu thần công nằm dưới đất sâu 2m. Trân trọng trước di vật cổ, nhân dân xã Hương Vinh đã chuyển khẩu thần công này bảo quản tại Phòng Văn hóa Thông tin thành phố Huế.
Riêng tại Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh hiện còn 11 khẩu. Vừa qua tỉnh Quảng Ngãi đã tìm thấy khẩu thần công ở độ sâu 3m, gần sát bờ hào phía Tây tỉnh Quảng Ngãi cũ. Súng đúc bằng hợp chất gang sắt, nặng khoảng gần 2 tấn. Khẩu súng này có niên đại thời nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX, gắn liền lịch sử với thành Quảng Ngãi cũ(9).
Về 41 khẩu thần công tại cố đô Huế thì trong đó có 4 khẩu đã bị kẻ gian đem bán "sắt, phế liệu" (xem bảng thống kê, các số thứ tự 3,11,12). Hiện nay vẫn còn một số khẩu thần công nằm rải rác trên địa bàn thành phố. Nên chăng, cần có kế hoạch qui tập về một địa điểm (chẳng hạn như Bảo tàng Cổ vật) để được giữ gìn, bảo vệ được chu đáo hơn?
![]() |
H.V
(TCSH55/05&6-1993)
-------------------
Chú thích:
(1) Dẫn theo Phạm Hữu Công: Mười một khẩu đại bác bằng đồng thời Nguyễn tại Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh. Kỷ yếu hội thảo khoa học - Những vấn đề văn hóa, xã hội thời Nguyễn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992, tr. 228.
(2) Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, tập 10, Nhà xuất bản Khoa học, Hà Nội 1964, tr. 119, tr. 124.
(3) Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, tập 14, Nhà xuất bản Khoa học, Hà Nội, 1965, tr. 265.
(4) Quốc triều chánh biên, bản dịch của nhóm Nghiên cứu Sử, Địa, Việt Nam xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.366.
(5) Đại Nam thực lục chính biên, đệ tứ kỷ, tập 30, Nhà xuất bản Khoa học Hà Nội, 1974, tr.65.
(6) Đoàn Văn Thằng - Hoàng Anh Tuấn. Đôi nét về văn hóa, nghệ thuật Nguyễn. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học - những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn, tr. 168.
(7) - (8) Nguyễn Đắc Xuân. Phụ chánh Trần Tiễn Thành, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1992, tr. 28 - 30.
(9) Báo Nhân dân số ra ngày 26.8.1992, tr.1.
L.T.S: TCSH nhận được bài này, đang chờ đưa in vào số thích hợp thì một tờ báo trong nước trích đăng; chúng tôi đành phải gác lại. Nay theo yêu cầu của tác giả, chúng tôi xin đăng nguyên bản.
Điện Voi Ré tọa lạc tại làng Trường Đá thuộc xã Thủy Biều, cách trung tâm thành phố Huế 4km về phía Tây Nam. Nếu đi bằng phương tiện xe máy hay ô tô là chỉ mất năm phút.
LÊ ĐÌNH PHÚC
NGUYỄN ANH THƯ
Trước khi hẹn gặp ông Hồ Tấn Phan lần đầu tiên vào năm 2008, tôi đã được đọc nhiều bài viết về “vua đồ cổ xứ Huế”, “người gõ mẻ sành kham nhẫn nhất xứ Huế” “người đọc sử dưới đáy sông Hương”… Dù tiếp cận dưới góc độ sưu tầm cổ vật hay bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc, điều dễ nhận ra là bài viết nào cũng dành không ít lời ca ngợi và thái độ khâm phục với ông Hồ Tấn Phan, một thầy giáo lại dành hơn nửa đời mình cho những cổ vật vớt từ dưới đáy sông Hương và các dòng sông ở Huế. Những bài viết về ông Hồ Tấn Phan cũng như sưu tập cổ vật “có một không hai” ở xứ Huế quả thực đã khơi gợi sự tò mò, quan tâm và hứng thú, thôi thúc tôi chọn Huế là điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến khảo sát các di tích khảo cổ học Champa ở miền Trung Việt Nam.
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Sau khi vào Nam, chúa Tiên - Nguyễn Hoàng đóng dinh ở Ái Tử, trong vòng mấy chục năm mà “Đoan quận công có uy lược, xét kỷ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp”(1).
Ngày 3/4, Bộ Cổ vật Ai Cập thông báo đã phát hiện di tích một kim tự tháp Ai Cập được xây dựng cách đây khoảng 3.700 năm trước tại huyện Dahshur, thuộc khu vực Giza.
Chiều 29-3, Sở VH-TT-DL tỉnh Quảng Ngãi cùng Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đoàn Ánh Dương tổ chức cuộc họp bàn các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Sa Huỳnh.
Chùa Thanh Mai nằm ở xã Hoàng Hoa Thám, thị xã Chí Linh (Hải Dương) là một trong những trung tâm Phật giáo Thiền phái Trúc Lâm thời nhà Trần, nơi gắn với tên tuổi Đệ nhị tổ Pháp Loa. Chùa Thanh Mai còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ quý giá, trong đó có tấm bia “Thanh Mai Viên Thông tháp bi” được tạo khắc từ thời nhà Trần, thế kỷ 14. Mới đây, tấm bia đã được công nhận là “Bảo vật quốc gia”.
Sự xuất hiện của đồng tiền Minh Đức thông bảo trong đồ tùy táng của bà Châu Thị Vĩnh Tế (vợ ông Thoại Ngọc Hầu) là một hiện tượng lạ, gây bất ngờ cho các nhà khoa học.
Bà Châu Thị Vĩnh Tế mất trước ông Thoại Ngọc Hầu 3 năm (bà mất năm 1826, ông mất năm 1829), tuy nhiên vẫn chưa rõ tài sản của ông và bà được chôn cùng lúc hay chôn riêng rẽ theo đám tang từng người.
Đã có nhiều tác phẩm viết về sự nghiệp và công lao của Thoại Ngọc Hầu, tuy nhiên cuộc sống đời thường của ông ít ai biết.
37 cuốn sách cổ bằng văn tự Hán Nôm cổ, quý hiếm được viết và in dập trên chất liệu giấy dó, một số sách viết, in theo lối chữ Chân.. đang được lưu giữ tại một nhà dân ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh cất giữ.
Ngày 22/11, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai tổ chức lễ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ và đón nhận bằng xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt di chỉ khảo cổ mộ cự thạch Hàng Gòn và bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia Văn miếu Trấn Biên.
Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du đã phát hiện cuốn sách cổ có niên đại 163 năm trước, liên quan đến đến dòng họ Nguyễn - Tiên Điền.
Bản thảo cổ nhất của người Ai Cập viết trên da thuộc đã được phát hiện trên kệ sách bảo tàng ở thủ đô Cairo, nơi nó được lưu giữ và chìm vào lãng quyên cách đây hơn 70 năm.
Như chúng tôi đã đưa tin, việc tìm kiếm lăng mộ Vua Quang Trung đang được các giới nghiên cứu ở Huế tiến hành. Dưới đây Sông Hương xin tiếp tục giới thiệu một luận cứ mới mà các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu văn hóa Huế mới phát hiện. Bài viết do anh Phan Thuận An, một thành viên của Trung tâm thực hiện.
S.H
Mới đây giới khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy hài cốt 4.000 năm tuổi của một bà mẹ đang ôm chặt đứa con. Vào thời điểm ấy, ở đây đã xảy ra một trận động đất dữ dội.
Tiến sĩ Nicholas Reeves, nhà khảo cổ người Anh thuộc trường Đại học Arizona, vừa tuyên bố ông đã tìm thấy lối vào bí mật dẫn đến phòng an táng Pharaoh Tutankhamun và đằng sau đó là mộ của Nữ hoàng Nefertiti lừng danh.