BẢO CƯỜNG
Tiếng sáo làm bạn với con người ngay từ tuổi ấu thơ. Tiếng sáo gợi hồn quê hương dân tộc. Chỉ với một ống trúc giản dị, mục đồng đã chế tạo thành một ống sáo để thổi. Những ngày lùa trâu ra đồng các em ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo nghe réo rắt, vang xa đến tận cuối làng.
Nghệ sĩ Bảo Cường thổi sáo - Ảnh: internet
Ngày xưa thần thoại Hy Lạp có câu chuyện tiếng sáo thần Pan chăn dê, chuyện chiếc sáo thần đã đi vào nhạc kịch của Mozart. Ở Trung Quốc có chuyện vua Thuấn thổi khúc tiêu thiều khiến chim phượng hoàng bay về múa trước sân. Tiểu sử dùng tiếng tiêu làm lay động và cảm được lòng nàng Lộng Ngọc, sau hai vợ chồng cùng cưỡi hạc bay lên trời. Thời Hán - Sở tranh hùng, có Trương Lương đã dùng tiếng tiêu làm tan rã tinh thần hàng vạn quân sở, giúp quân Hán thắng lợi, và thời gian gần đây cũng có chuyện tiếng sáo Ly Quê dìu dặt nhịp với bước chân Hồng Quân trên đường vạn lý trường chinh. Tiếng sáo đã đi vào văn học. Lý Bạch thi sĩ đời Đường có bài “Đêm khuya ở thành Lạc Dương nghe thổi sáo”.
Nhà ai sáo ngọc vẳng đêm thanh
Theo gió xuân bay khắp Lạc Thành
Đêm ấy vẳng nghe bài chiết liễu
Làng quê ai chẳng vấn vương tình
“Chinh phụ ngâm” có câu:
Lửa thành thoi thóp bên cồn
Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu
Thế Lữ có bài “Tiếng trúc tuyệt vời”:
Tiếng địch thổi đâu đây
Nghe sao mà réo rắt
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây bay… gió quyến mây bay
Tiếng vi vút như khuyến vang như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may.
Sáo thường làm bằng ống trúc khoét lỗ, nên tiếng sáo cũng được gọi là tiếng trúc. Sáo kết hợp với đàn dây gọi là “tơ trúc” thành danh từ chung chỉ âm nhạc. Nói tóm lại, làm một ống sáo thì rất đơn giản, ai cũng có thể làm được. Nhưng làm một ống sáo cho đúng hợp âm của nó rất là công phu, nghiên cứu lâu dài. Cũng như làm ra ống sáo đúng hợp âm, thổi sáo cho hay là cả một quá trình tập luyện. Người nghệ sĩ thổi sáo phải gởi lòng mình qua hơi thở từng lỗ sáo để tiếng sáo vang lên âm thanh làm say đắm lòng người.
Từ kinh nghiệm bản thân, một người làm thơ và qua quá trình diễn ngâm và đệm sáo cho thơ trên 40 năm với nghề, tôi đã học hỏi rất nhiều và có thể kết luận: Muốn đi vào nghệ thuật thổi sáo, người nghệ sĩ phải có hai yếu tố rất quan trọng, không thể thiếu được, đó là phải có năng khiếu và phải thật đam mê. Thiếu một trong hai thì khó thành công.
Tiếng sáo mang tâm sự cả một cuộc đời mình gởi thác cho nó, và tiếng sáo lòng sẽ vang vọng mãi theo bước đường lưu lạc vui buồn có nhau:
Và tiếng lòng của tôi cũng đong đưa theo nhịp sáo ngân dài…
Sáo ngân ngân mãi bên đời
Tiếng rơi cung oán tiếng vời cung thương
Tiếng nào theo gió ngàn phương
Gởi người tri kỷ dặm trường mờ xa
Người đi cách biệt quê nhà
Duyên thơ sáo vẫn đậm đà tình quê
Gởi hồn theo ngọn gió về
Hương Giang khúc hát hồn quê sáo diều.
Tôi sinh ra và lớn lên ở Huế nên ít nhiều tiếng sáo và thơ của tôi cũng mang âm hưởng, hơi hướm của các làng điệu Huế. Tôi gắn bó với lời ru giọng hò man mác sông Hương, nghe tiếng sáo diều vi vu trong nắng gió, quên đi bao ưu phiền lo lắng trong cuộc sống xô bồ ồn ào. Nghe tiếng sáo sẽ quên hết mọi bận rộn, để tâm hồn đùa vui với những tầng mây trên khoảng trời xanh ngắt, sống lại với quá khứ của tuổi ấu thơ và tương lai chợt đến đâu đây, cùng những cánh diều đầy màu sắc, khiến lòng lâng lâng trong niềm hạnh phúc.
Tiếng sáo hòa quyện với điệu hò mái nhì dàn trải, chậm rãi, khoan thai, êm ái buông lơi, miên man như sóng vỗ nhẹ mạn thuyền, như mái chèo nhịp nhàng khua nước…
B.C
(SH288/02-13)
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.