Thư viết từ khám tử hình - Phan Đăng Lưu với mặt trận dân chủ ở Huế (1936 – 1939)

09:23 20/08/2008
LTS: Phan Đăng Lưu là một nhà cách mạng tiền bối, tiêu biểu của Đảng từng hoạt động ở Huế và có ảnh hưởng lớn đến trí thức văn nghệ sĩ yêu nước thời bấy giờ. Chính nhà thơ Tố Hữu cũng đã thổ lộ điều đó trong bài thơ Quê me (Anh Lưu anh Diểu dạy con đi).Nhân 100 năm ngày sinh Phan Đăng Lưu (5.5.1902 – 5.5.2002), Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số tư liệu về đồng chí, đặc biệt là bức Thư viết từ khám tử hình – bức thư mang đặc trưng "đa nghĩa" của một tác phẩm văn học nên nó đã vượt qua được sự kiểm duyệt khắt khe của kẻ thù.

THƯ VIẾT TỪ KHÁM TỬ HÌNH

Con yêu quý (*)
Chắc là qua báo đăng, con đã biết tin cha bị kết án tử hình trong các điều mà cha bị buộc tội có những điều sau đây:
1. Theo lời khai của người nào đó tên là T trước khi chết, thì cha đã tham gia cùng anh ta trong một cuộc hội nghị bí mật ngày 19/11/1940, từ đó phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong cả nước. Thế nhưng chính ngày đó (ngày 19/11) cha còn ở Hà Nội và chỉ về tới Sài Gòn sau ngày 22/12. Con thử nghĩ xem cha có cái thuật phân thân như một Phakia (1) hay phép biến hoá vô cùng như một vị đại thánh trong huyền thoại không?
2. Dường như cha đã thảo một lời kêu gọi gửi quân đội cách mạng. Thật ra, đó chỉ là một mảnh giấy trên đó có 4 - 5 dòng tiếp theo bản ghi chép của cha về Tân tứ quân của Đảng cộng sản Trung Quốc (Ôi dịch tức là phản!) (2).
Đó là hai tội, là điều đã mang lại cho cha án tử hình.
Nhưng con yêu quý con đừng buồn, con cố gắng lau khô nước mắt của mẹ con, hãy an ủi mọi người trong gia đình, nhất thiết đừng có chạy chọt, điều đó chỉ uổng công vô ích thôi.
Trong lúc chờ quyết định cuối cùng từ Pháp sang, cha hiện đang bị nhốt tại khám lớn Sài Gòn, phòng số 13. Chế độ dành cho cha và các bạn tù có thể nói là không chê trách được, nếu như không khí ở đây không ngột ngạt, vì phòng giam đúng là một cái lò, trong đó mọi người bị rang lên thật sự. Chỉ sợ cha và các bạn không thể sống lay lắt cho đến ngày hành hình.
Dẫu sao, cha cùng bình tâm nhận số phận đã dành cho mình và kiên gan chịu đựng.
Một lần nữa, con hãy tự an ủi và làm khuây lòng tất cả những người mà cha thương mến. Con trả lời cho cha càng sớm càng tốt.
PHAN ĐĂNG LƯU
--------------------------------------------
(*) Thư này được gởi đi từ Bưu điện Sài Gòn, đóng dấu 22 giờ ngày 2/5/1941, đến Bưu điện Hà Tĩnh 11h30 ngày 5/5/1941. Nguyên văn bằng chữ Pháp, viết bằng bút chì.
(1) Phakia, gốc từ chữ Arập, tên gọi những thầy tu khổ hạnh ở Ân Độ.
(2) Đây nguyên là thành ngữ La tinh được Phan Đăng Lưu viết bằng chữ La tinh trong thư "O tranuttore traditore" nghĩa là "Ôi dịch tức là phản", có ý ám chỉ người dịch bản ghi của cha về Tân tứ quân ra chữ Pháp đã dịch sai, gây nên sự hiểu lệch đi của người Pháp nghiên cứu hồ sơ của anh. Thành ngữ này đã mang tính quốc tế phổ biến.


PHAN ĐĂNG LƯU VỚI MẶT TRẬN DÂN CHỦ Ở HUẾ
(1936 – 1939)

NGÔ KHA

Đồng chí Phan Đăng Lưu, người con xứ Nghệ, người chiến sĩ cộng sản kiên cường sống mãi trong niềm kính trọng, biết ơn của nhân dân Huế về sự đóng góp to lớn của đồng chí trong phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế (1936 – 1939) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những năm giữa thâp kỷ 20 của thế kỷ 20, từ làng Tràng Thành tỉnh Nghệ An, Phan Đăng Lưu đã vào học trung học tại Huế. Năm 1928, anh lại vào Huế để tham gia chuẩn bị Đại hội Đảng Tân Việt và tham gia biên tập "Quan Hải tùng thư", soạn những cuốn sách tuyên truyền tư tưởng tiến bộ để giáo dục đảng viên và quần chúng. Ở Huế, Phan Đăng Lưu có điều kiện hòa mình vào công nhân, thanh niên, trí thức và nhiều tầng lớp lao động, tổ chức đấu tranh trong phong trào yêu nước – dân chủ. Tại Đại hội Đảng Tân Việt tháng 7.1928 họp tại Huế, đồng chí được bầu vào Thường vụ Tổng bộ Tân Việt, phụ trách tuyên huấn.
Cuối năm 1928, đồng chí Phan Đăng Lưu được cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) tìm gặp Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, nhưng bị mất liên lạc, đồng chí trở về nước. Sau đó đồng chí lại trở sang Trung Quốc một lần nữa, nhưng đồng chí đã bị địch vây bắt trên đường đi tại Hải Phòng và đưa về giam nhà tù Vinh. Năm 1930, Phan Đăng Lưu bị đày lên nhà lao Buôn Mê Thuột. Tại đây, đồng chí đã gặp lại các đảng viên cộng sản ở Huế. Đồng chí Bùi San kể lại: "Mấy năm sống cạnh anh Lưu ở Buôn Mê Thuột, anh mang số tù 1438, đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc. Một mặt, anh bền bỉ đấu tranh chống kẻ thù, mặt khác anh luôn luôn quan tâm đến đời sống tinh thần cũng như vật chất của anh em đồng chí. Anh thường xuyên giúp anh em nâng cao trình độ chính trị, giữ vững tinh thần đấu tranh cách mạng và chí khí chiến đấu..."
Đầu năm 1936, Phan Đăng Lưu được ra tù do phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta và trào lưu tiến bộ lúc bấy giờ. Đồng chí được trở về Huế – trở về với phong trào đấu tranh của một thành phố mà đồng chí từng gắn bó, thân thuộc. Anh lại hăng hái cùng các đồng chí Nguyễn Chí Diểu, Lê Duẩn, Bùi San lao vào cuộc chiến đấu mới.
Do bối cảnh lịch sử thuận lợi, Đảng ta đã tổ chức Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm đoàn kết mọi lực lượng dân chủ và tiến bộ dưới khẩu hiệu hòa bình, tự do dân chủ, cơm áo. Đảng chủ trương kết hợp những hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp để xây dựng tổ chức Đảng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của nhân dân.
Cuộc vận động Đông Dương Đại hội được tổ chức rộng khắp nhiều nơi trong nước, trong đó cuộc vận động ở Huế và các tỉnh miền Trung rất rầm rộ, sôi nổi. Đồng chí Phan Đăng Lưu được giao phụ trách đấu tranh hợp pháp tại thành phố Huế. Đồng chí là một trong những người lãnh đạo chủ chốt của cuộc vận động Đông Dương Đại hội tại Huế và các tỉnh chung quanh. Sau thời gian vận động, Đại hội đại biểu nhân dân được tổ chức tại Huế – trung tâm chế độ cai trị thực dân phong kiến. Nhân dân thành phố Huế và các huyện tỉnh Thừa Thiên sôi sục kéo đến mít tinh tỏ sự ủng hộ tuyệt đối và đưa nguyện vọng của mình lên Đông Dương đại hội. Đồng chí Phan Đăng Lưu tham gia chủ tịch đoàn Đại hội. Việc tổ chức được Đông Dương đại hội ở Trung Kỳ là một thắng lợi lớn. Nhân dân khâm phục, tin tưởng các đồng chí Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu và các chiến sĩ cộng sản lãnh đạo cuộc họp đó.
Phát huy thắng lợi, các cuộc bãi công của thợ in, thợ may, công nhân nhà máy điện Huế, xưởng vôi Long Thọ và các cuộc đấu tranh của nông dân các huyện Phú Vang, Hương Trà, Hương Thủy, Phong Điền... chống sưu thuế.
Đồng chí Phan Đăng Lưu đã góp phần quan trọng lãnh đạo nhân dân Thừa Thiên Huế đón và đưa dân nguyện cho Gô Đa, phái viên Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương cuối tháng 2.1937. Trong hai ngày Gô Đa ở lại Huế, nhiều cuộc "đón tiếp" với nhiều bản "dân nguyện" được các tầng lớp nhân dân vượt qua sự kìm kẹp chặt chẽ của mật thám, của các loại lính tới tấp đưa đến Gô Đa. Gô Đa đã phải nhận những bản yêu sách đòi cải cách dân chủ ở Đông Dương. Ngày 27.2.1937, một số đoàn đại biểu, trong đó có đoàn do đồng chí Phan Đăng Lưu dẫn đầu đến gặp Gô Đa đưa một bản yêu sách, một bản dân nguyện với lời lẽ kiên quyết, đanh thép.. Phan Đăng Lưu là một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ yếu cuộc biểu dương lực lượng quần chúng đòi cải cách dân chủ, đòi cải thiện đời sống dứoi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những ngày hoạt động ở Huế, đồng chí Phan Đăng Lưu đặc biệt quan tâm đến công tác tuyên huấn của Đảng. Đồng chí trực tiếp chỉ đạo các tờ báo Nhành Lúa, Sông Hương, cộng tác với "Quan Hải tùng thư", xuất bản những loại sách phổ thông nhằm giáo dục lòng yêu nước thanh niên trí thức Huế, viết bài cho báo "Hồn trẻ", "Tin tức".
Xứ ủy phân công đồng chí Phan Đăng Lưu tổ chức đại hội báo chí Trung Kỳ tại Huế để tập hợp những người viết báo tiến bộ, hướng các báo vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Đại hội báo chí đã họp tại Huế, có đại biểu trong Nam, ngoài Bắc và đại biểu công nhân, nông dân, trí thức, học sinh Thừa Thiên Huế đến dự.
Năm 1938, báo Dân – cơ quan những người cấp tiến xứ Trung Kỳ ra đời do Phan Đăng Lưu phụ trách. Báo "Dân" đã thể hiện tập trung nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, được nhân dân Huế và Trung Kỳ hoan nghênh. Số đầu báo "Dân" đã đăng những bài thơ đầu tay của đồng chí Tố Hữu va nhà thơ nhớ mãi những lời dặn dò chí tình của đồng chí Phan Đăng Lưu: "... Hãy ở gần với đời sống, với quần chúng lao động.., lấy ngôn ngữ quần chúng, phải viết dễ đọc, dễ hiểu và đừng dài quá...". Sau này trong bài thơ "Quê mẹ", Tố Hữu đã ghi nhớ công lao của Phan Đăng Lưu:
"Con lớn lên con tìm cách mạng
Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi
Mẹ không còn nữa, con còn Đảng
Dìu dắt khi con chửa biết gì"
Đồng chí Phan Đăng Lưu đã cùng Nguyễn Chí Diểu và nhiều đảng viên khác đi sát các địa phương, tuyên truyền vận động thắng lợi việc bầu những người của Mặt trận Dân chủ vào Viện Dân biểu Trung Kỳ, góp phần chỉ đạo đấu tranh chống lại dự án tăng thuế thành công.
Cuối năm 1939, Phan Đăng Lưu rời Huế vào hoạt động ở Nam Bộ và hy sinh anh dũng đầu năm 1941.
Đồng chí Phan Đăng Lưu đã tham gia tích cực, sắc bén trong chỉ đạo phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế và Trung Kỳ. "Đó là một thời kỳ vận động quần chúng sôi nổi chưa từng thấy dưới thời Pháp thống trị, chuẩn bị điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu quyết liệt mới trong thời kỳ 1940-1945 (Lê Duẩn – Dưới lá cờ vẻ vang)...
Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế ghi nhận vai trò của đồng chí Phan Đăng Lưu lãnh đạo phong trào cách mạng ở Huế. Con đường có hiệu sách Thuận Hoá – cơ quan Xứ uỷ ở trung tâm thành phố được mang tên đường Phan Đăng Lưu, ngôi trường phổ thông trung học trên đường Huế – Thuận An, nhìn qua bên kia sông Phổ Lợi là ngôi nhà Bác Hồ ở Dương Nỗ, được mang tên Trường Phổ thông trung học Phan Đăng Lưu. Trong công tác giáo dục, phát huy truyền thống những chiến sĩ cộng sản kiên cường, Phan Đăng Lưu người con xứ Nghệ cũng như là một người con xứ Huế, một tấm gương cộng sản, niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Huế.
N.K
(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNLTS: Cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một cuộc tập kích chiến lược. Thắng lợi của cuộc tập kích ấy buộc Đế quốc Mỹ giữa lúc có đông quân nhất ở Việt Nam, hy vọng sẽ chiến thắng bằng quân sự phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn hoà đàm mở đầu cho thời kỳ thất bại của Mỹ dẫn đến chỗ Mỹ phải rút chạy khỏi miền Nam Việt Nam.

  • Vậy là tròn một năm kể từ sớm đông ấy Nguyễn Xuân Hoàng giã biệt cõi trần khi Huế còn chìm trong sương giá. Chỉ vỏn vẹn 99 ngày gắn bó, nhưng anh là nỗi ray rứt giữa lúc Sông Hương đang ẩn hình những ngọn sóng... Lật giở hơn ngàn trang bản thảo của anh, mấy ai không giật mình trước sự cay cực đến xót xa để có được một đời văn bình dị?Giỗ đầu, bạn bè và đồng nghiệp Xuân Hoàng đã cùng với Sông Hương thắp lên nén nhang tri ngộ...(Nguyễn Khắc Thạch - Lê Văn Chương - Hoàng Diệp Lạc - T. E - Nguyễn Trương Khánh Thi - Đinh Thu - Ngàn Thương - Trần Hạ Tháp - Nhất Lâm)

  • NGÔ MINHTrong những bài viết trước, chúng tôi đã hé lộ đôi chút về những mối tình sau này của Phùng Quán. Lần này lại một mối tình nữa, mà hình như là mối tình đầu ly kỳ hơn đã được Phùng Quán tự kể và chị Bội Trâm phát hiện ra.

  • HOÀNG VŨ THUẬT           Chưa ai để ý đến đâu           Cây đứng khép mình lặng lẽ...                                        (Cây lặng im)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊMột chiều Xuân bên sông Hương. Mặt trời suốt ngày ẩn sau lớp mây xám nhạt nay đã khuất hẳn dưới dãy Kim Phụng xanh thẫm nhấp nhô đằng xa ở bên kia bờ. Một chiếc thuyền từ phía Ngã Ba Tuần hối hả xuôi dòng, tiếng máy nổ khuấy động giây lát mặt sông phẳng lặng trong màn sương chiều mờ ảo bắt đầu buông xuống.

  • NGÔ MINHMỗi nhà văn có một “gu” ẩm thực riêng, không lẫn. Vũ Bằng, Nguyễn Tuân sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nên rất sành ăn và viết rất hay về các món ăn tinh tế và đài các của Thủ Đô. Nhà văn Phùng Quán cũng có một cá tính ẩm thực rất đặc biệt.

  • TRỊNH THANH SƠN  A. Anh là hoạ sĩ, Nghệ sĩ ưu tú của ngành sân khấu, lại còn là một nhà thơ, nhà viết kịch, nhà báo xông xáo... Ngần ấy công việc anh sắp xếp bố trí theo thời gian như thế nào và anh dành quyết tâm cho việc nào hơn cả?

  • XUÂN ĐÀI(Trích ký sự)Trong gần mấy trăm vòng hoa viếng Phùng Quán, có một vòng hoa rất đặc biệt. Đó là vòng hoa của "những người câu cá trộm" cư ngụ ở những làng dọc đê Yên Phụ, chủ yếu là làng Nghi Tàm, xã Quảng An, Hà Nội. Kèm theo vòng hoa là một phong bì phúng điếu mà số tiền gấp đôi tiền phúng điếu của cơ quan Hội Nhà văn Việt .

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤN(Mười năm Kỷ niệm... Một cuộc rong chơi)Trong quan hệ bè bạn lâu năm, có lẽ chưa lần nào chúng tôi có với nhau một cuộc rong chơi đã đời và thú vị như lần ấy. Mà hình như đấy là cuộc đi cuối cùng của Quán trong cõi đời này. Còn những cuộc du hí tiếp theo ở thế giới bên kia với những ai thì cho đến bây giờ tôi cũng không được rõ lắm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong câu chuyện vui của giới văn nghệ sĩ trước những công việc có tính chất tổng kết, phân loại đội ngũ, một số người được anh em phong tặng danh hiệu “nhà-thơ-một-bài”, “nhạc-sĩ-một-bài”...

  • LTS: Do đặc trưng nghề nghiệp nên mỗi nhà văn đều có thiên chức một nhà giáo. Bởi vậy, những người vừa là nhà giáo vừa là nhà văn thì đều có thể gọi họ là những nhà giáo kép.Nhân ngày nhà giáo Việt Nam, Sông Hương trân trọng giới thiệu một số ý kiến của các nhà giáo "kép" ở Huế nói về cái nghiệp dĩ riêng mang tính xã hội cao của họ.

  • HỒ THẾ HÀTrại sáng tác Văn học nghệ thuật năm 2002 do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức từ ngày 27 - 8 - 2002 đến ngày 6 - 9 - 2002 đã thành công và để lại những trang viết giàu ấn tượng về cuộc sống và con người, đặc biệt là cuộc sống và con người Phú Thuận, Phú Vang - vùng quê có nhiều truyền thống và tiềm năng văn hoá vật chất và phi vật chất vừa trải qua một nỗi đau lớn do thiên tai gây ra.

  • ĐẶNG NHẬT MINHNhững ngày đầu tiên khi bước chân vào con đường sáng tác điện ảnh tôi đã may mắn có nhà văn Hoàng phủ Ngọc Tường ở bên cạnh.

  • TRẦN HUY THANHTừ ngày 1 đến 15/7/2002, được sự giúp đỡ của Bộ Văn hoá Thông tin, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã cử đoàn văn nghệ sĩ đi dự trại sáng tác văn học nghệ thuật tại Nhà sáng tác Vũng Tàu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊBạn đọc cả nước - nhất là những ai quan tâm đến lịch sử và tiểu thuyết lịch sử - hẳn đã biết Nguyễn Mộng Giác là tác giả bộ tiểu thuyết trường thiên “Sông Côn mùa lũ” (SCML) 4 tập, 2000 trang viết về thời Tây Sơn-Nguyễn Huệ (NXB Văn học-Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998).

  • "Những bức tranh sơn thủy đầu tiên đã chiêu đãi chúng tôi quýt cam và bánh mỳTrưa no nê nhìn phố xá trăm màu.Tối tìm chỗ ngủ lang thang nhớ mẹ".

  • Sau ngày thất thủ Kinh đô (Huế), vua Hàm Nghi xuất bôn hạ chiếu Cần Vương kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp. Sau ba năm chiến đấu ở rừng sâu, vua Hàm Nghi bị Trương Quang Ngọc làm phản bắt vua nộp cho Pháp. Để cách ly ngọn cờ yêu nước với quốc dân Việt Nam, cuối năm 1888, thực dân Pháp đã lưu đày vua Hàm Nghi qua Algérie thuộc Pháp. Không hy vọng có ngày được trở lại Việt Nam, nên vua Hàm Nghi đã lập gia đình tại Algérie rồi 40 năm sau ông mất ở đó.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGPhương mất đột ngột ở Quảng Trị. Nghe tin anh ra đi, bạn bè văn nghệ Huế không bàng hoàng, cũng không cảm thấy sửng sốt. Chỉ thấy lòng bùi ngùi, như khi ta nhìn thấy một ngôi sao chưa bao giờ sáng bỗng một ngày tắt lịm trong lặng lẽ.

  • PHÙNG QUÁN... Vì vậy mà có sự rung động bí mật của ý nghĩ, khiến nhà bác học trở thành người thần bí, và thi sĩ thành đấng tiên tri.                                                    (Victor Hugo - Lao động biển cả).

  • NGUYỄN QUANG HÀRa Hà Nội mùa thu này tôi muốn đến thăm anh Lê Khả Phiêu. Những ngày anh đương chức, đến, người ta nghĩ mình cơ hội. Nhưng nay anh đã nghỉ, đến thăm là nghĩa tình đời. Lòng mong muốn ấy của tôi, được anh chấp nhận và hẹn giờ gặp.