Thơ văn và lũ lụt

10:07 02/11/2009
ĐẶNG TIẾNTừ thượng tuần tháng mười dương lịch năm nay, cũng như năm 1999, nhiều trận lũ lụt nghiêm trọng nhất chưa từng thấy từ một thế kỷ nay đã đổ ập xuống miền Trung Việt Nam, đặc biệt đã tàn phá vùng Thừa Thiên-Huế. Nhiều tỉnh khác, cũng bị thiệt hại nặng nề về nhân mạng cũng như tài sản.

Đại Nội trong ngày lũ- Ảnh: Hoàng Hữu Tư

Việt Nam từ xa xưa đã có câu ca dao tang tóc: Ông tha mà bà chẳng tha /Vẫn làm cơn lụt hăm ba tháng mười.
Tháng mười âm lịch, vẫn còn ứng đúng vào thời kỳ lũ lụt ngày nay, cũng như trận lụt năm Giáp Thìn 1964, chồng thiên tai lên chiến tranh, vào một giai đoạn ác liệt nhất, đã phá hại miền Trung thân yêu của nhà thơ Tường Linh (1933- 2005), qua những hình ảnh bi thảm:

            Biết thủa nào quên

            Một tối nước lên, nước tràn lên khủng khiếp
            Cả trăm người, cả ngàn người không chạy kịp
            Nước réo ầm ầm, át tiếng kêu la
            Chới với, ngửa nghiêng, người cuốn theo nhà,
            Nhà theo sóng, người không thấy nữa
            ...
            Những kẻ sống không nhà không cửa
            Không áo cơm, không cả lệ thông thường
            Cắn vành môi nhìn lại một quê hương
            Bỗng run sợ, tưởng đây là địa ngục
            Thảm nạn quê hương

Lũ lụt là một tai họa thường xuyên ám ảnh tâm thức Việt Nam, từ bộ tộc Văn Lang thời kỳ Hùng Vương dựng nước, mà truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh là một biểu tượng.

Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen

Thủy Tinh hàng năm dâng nước lên đánh nhau với Sơn Tinh là hình ảnh những trận lũ lụt thường niên tàn phá đồng bằng sông Hồng, cái nôi của bộ tộc Âu Lạc tự ngàn xưa. Chiến thắng của Sơn Tinh là hy vọng của một dân tộc thường xuyên chiến đấu với thiên nhiên.

Về sau, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, đã giải thích là chọn địa điểm cao ráo để dân cư không còn sợ nạn lũ lụt, trong Chiếu dời Đô (1010).

Như vậy bão lụt đã là mối đe dọa đời đời, phản ánh qua truyền thuyết cũng như văn học Thành Văn.

Phòng vệ lũ lụt, xây dựng và bảo vệ đê điều là nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia, là nhiệm vụ sống còn của dân tộc. Từ ngàn xưa, văn thơ đã đánh dấu những thiên tai như bài thơ của Nguyễn Húc thời Lê Thái Tổ, năm 1429:

            Gió thu nổi trận ào ào
            Phập phồng mái lá, rào rào mặt sông,
            ... Trận mưa ập xuống, hãi hùng
            Tràn khe ngập suối, mịt mùng trời mây
                        (Phong Vũ Thán, (1429), ĐT phỏng dịch)

Không cứ gì châu thổ sông Hồng là vùng đất trũng, cả miền Trung từ thời xa xưa đã là nạn nhân của Thủy Tinh, như trận lụt ở phủ Triệu Phong (Thừa Thiên ngày nay) giữa thế kỷ 18 đã được nhà thơ Nguyễn Cư Trinh ghi lại:

            Triệu Phong đợt đợt sóng dồi
            Nát lòng Châu Định, cuốn trôi nghìn nhà
            Nghìn nhà dạt tận châu xa
            Sông sâu sấu dọa, rừng già rắn hăm
                        (Đại Phong Kỷ Hoài (1751) , ĐT phỏng dịch)

Khi chữ Nôm phát triển, nhà thơ Nguyễn Khuyến gắn bó với nông thôn, đã để lại nhiều bài thơ lụt xuất sắc, mô tả nhiều trận lũ tàn phá đất Hà Nam nhiều năm liên tiếp từ năm Canh Dần (1890) sang Quý Tị (1893) đến Ất Tị (1905).

Năm Canh Dần, mưa lớn vùng Nam Định đã phá vỡ con đê quai làng Mễ Tràng, huyện Thanh Liêm, và nước sông Đáy đã tràn ngập quê hương Nguyễn Khuyến.

Nước lụt Hà Nam

Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi, / Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi. / Gạo dăm ba bát cơ còn kém, / Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi. / Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng,/ Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi, / Đi đâu cũng thấy người ta nói. / Mười chín năm nay lại cát bồi.

Bốn bài thơ lụt của Nguyễn Khuyến có giá trị nghệ thuật cao, nhưng cho dù hôm nay, ở đây, không phải là chỗ để chúng ta phân tích hay thảo luận về nghệ thuật thi ca, cũng xin nhắc lại những vần thơ đằm thắm và tài hoa trong cơn lụt lội:

Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu,/ Lụt lội năm nay bác ở đâu?/ Mấy ổ lợn con rày lớn bé,/ Vài gian nếp cái ngập nông sâu?

Đồng bằng sông Cửu Long không tránh khỏi tai trời ách nước:

Trời mưa từng trận, gió từng hồi,/ Bốn mặt Giang Sơn ngập cả rồi,/ Lũ kiến bất tài muôn khóm dạt,/ Giống bèo vô dụng một bè trôi./ Liu riu rừng quạnh nghe chim hót,/ Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi./ Nỡ để dân đen chìm đắm mãi,/ Này ông Hạ Vũ ở đâu rồi?
                                                   (Nước lụt, Nguyễn Đình Chiểu)

Trong bất cứ đề tài nào, văn thơ Nam Bộ vẫn một giọng nghĩa khí, “trung hiếu làm đầu”

Đầu thế kỷ 20, Phan Bội Châu đã có bài Văn Tế đồng bào Nghệ Tĩnh đồng hương chết vì bão lụt, giọng văn bi tráng:

Sông vàng máu đỏ, chết đã quá oan;/ Nước mặn đồng chua, sống càng thêm cực./ Chật làng xóm chứa đầy là oan quỷ, tha hồ khóc khóc rên rên;/ Thây trâu bò cũng sạch với Diêm Vương, vắng ngắt rì rì tắc tắc,/ Thương những kẻ mất vợ mất chồng, mất anh em cha mẹ,/ bới đất tìm nhưng sợ ngục nhiều tầng;/ Xót vì ai không cơm không cháo, không nhà cửa ruộng vườn,/ kêu trời hỏi biềt chồng thang mấy bậc!

Nhà văn Ngô Đức Kế trên báo Hữu Thanh năm 1924, có lời kêu gọi cứu lụt hôm nay vẫn còn thời sự:

Đến hôm nay mà nói cứu nước lụt thì chẳng chậm lắm ru? Phải, vẫn khi chậm thiệt, song đã là một việc tai nạn trời làm, mà lại nghĩa anh em đồng chủng, không thể khoanh tay ngồi nhìn mà không cứu, vậy thì dù chậm cũng còn cứu được, mà đã cho là chậm rồi thì trong lúc cứu này, lại phải làm sao cho chóng, cho mau, nghĩa là làm sao cho có tiền có gạo ngay bây giờ, chứ nếu để lại chậm hơn nữa thì thương thay!

Cứu dân nước lụt! Dân nước lụt nghĩa phải cứu, mà cứu thì phải cứu cho mau, đã có món tiền để cứu rồi thì phải làm sao cho trong mười đồng phát đến dân không sót tay ai đồng nào, lại làm sao cho dân được lĩnh món tiền cứu tế ấy chỉ là những kẻ chân bùn tay lấm, áo manh khố một mà thôi, đó là điều chúng ta rất nên chú ý.

Nhà thơ Tản Đà cũng có lời kêu gọi tương tự:

Này những ai, này những ai / Ai có nghe rằng việc thủy tai / Tỉnh Bắc, tỉnh Đông, cùng tỉnh Thái, / ruộng ngập nhà chìm, thây chết trôi

Các nhà văn quốc ngữ đã đặc biệt quan tâm đến cảnh lũ lụt và những lầm than của con người.

Một trong những thành tựu đầu tiên của văn chương quốc ngữ là truyện ngắn “Vỡ Đê” của Phạm Duy Tốn, 1917. Truyện ngắn đầu tay của Tô Hoài là “Nước Lên”, 1938, tả cảnh hộ đê, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố và nhiều nhà văn khác đã để lại những trang văn xuôi xuất sắc về cảnh lũ lụt.

Thơ văn thời chống Pháp đã có bài thơ mưa lụt thật hay của Hồ Vi (?- ?), hồn nhiên và tài hoa, mà các tuyển tập thi ca chính thức sau này đã bôi xóa:

            Mấy bữa ni rồi trời thiếu nắng,
            Chừng chưa bưa lụt, nước còn cao,
            Hi hôm bộ đội hành quân tới,
            Trấn thủ dầm phơi chật cả sào.

                                    (Lời Quê, 1950)

Trong thơ văn hiện đại, bão lụt vẫn còn là một đề tài lớn lao, bài thơ “Thảm nạn quê hương” của Tường Linh nói trên, tả cảnh lụt năm Giáp Thìn 1964 tại Quảng Nam là một ví dụ. Ví dụ khác là tiểu thuyết “Mẫn và Tôi” của Phan Tứ (1972) đã nhập đề bằng một chương tả cảnh lụt tại Quảng Nam - Quảng Ngãi trong thời kỳ chiến tranh. Tiểu thuyết “Thời Xa Vắng” (1980) của Lê Lựu được cấu trúc trên một chuyện tình xảy ra một đêm trăng lũ lụt, khoảng 1956, tại Hà Nam quê hương Nguyễn Khuyến.

Ở một miền văn học khác, tùy bút “Thư Nhà” (1961) một trong những thành công đầu tay của Võ Phiến đã nhập đề bằng một cảnh lụt ở Quy Nhơn. Nhà thơ Tô Thùy Yên, nổi tiếng với bài thơ “Qua Sông” (1971) tả cuộc hành quân trong cảnh trời nước mênh mông của đồng bằng sông Cửu Long:

            ...Giặc đánh lớn, mùa mưa đã tới
            Mùa mưa như một trận mưa liền
            Châu thổ mang mang trời nước sát
            Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên
            ...Người chết mấy ngày không lấy xác
            Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh

Bài này, viết về đề tài lũ lụt, là một thâm tình, đặc biệt hướng về đồng bào, và bè bạn, nạn nhân của tai trời ách nước, vừa mới ập xuống trên quê hương. Để chứng tỏ rằng văn chương, dù ở xa tổ quốc, vẫn gắn bó với số phận điêu linh của đồng bào trong nước. Và để kêu gọi tinh thần lá lành đùm lá rách của mỗi độc giả đối với bà con ruột thịt nạn nhân của thiên tai, vọng lại lời kêu gọi trước đây của Tản Đà:

            Hỡi ai ai! Là những người
            Ông ở trong nước, bà ngoài nước
            Có nhiều cho nhiều, ít cho ít,
            Cứu kẻ bần dân lúc thủy tai.

Đ.T

(249/11-09)

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Cách đây đúng 10 năm, thảm họa Đại hồng thủy tháng 11.1999 đã gần như san phẳng vùng đất Thừa Thiên Huế. 385 người đã chết và mất tích, 94 người bị thương, 20.015 ngôi nhà bị đổ và nước cuốn trôi, 1.207 phòng học bị sập, đàn gia súc, gia cầm gần như chết sạch với con số triệu con, hoa màu vườn tược tan hoang, thậm chí nhiều làng mạc gần như xóa sổ... Tang thương dậy tiếng ngất trời ngày ấy...

  • NHÓM CTV SÔNG HƯƠNG                                   Ghi chép 10 năm sau cơn lũ lịch sử năm 1999, cơn bão số 9 (2009) (Ketsana) kèm theo một trận lũ lớn lại ập đến, xóa tan bao công sức, tiền của của Nhà nước và nhân dân gây dựng trong suốt những năm qua. Ghi chép của nhóm CTV Sông Hương tại những vùng lũ cho thấy người dân đang đối mặt với khốn khó trăm bề bởi thiên tai ngày một nghiêm trọng và phức tạp...

  • LTS: Dưới đây là một câu chuyện có thật diễn ra trong Đại hồng thuỷ Huế-1999 mà nhiều người có nghe đến. Hai thầy giáo và một bảo vệ trường đã cứu 57 em học trò nhỏ qua cơn nguy hiểm. Một trong số đó là nhà thơ Lê Vĩnh Thái, vừa mới chuyển công tác về Tạp chí Sông Hương năm 2009. Sau hành động dũng cảm ấy, thầy giáo Lê Vĩnh Thái đã vinh dự nhận được nhiều bằng khen của Tỉnh Đoàn, Trung ương Đoàn, Huy chương Tuổi trẻ dũng cảm, Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc Trẻ em Việt Nam, Bộ GD và ĐT, đặc biệt là bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Anh đã giấu kín chuyện này nhiều năm, phải đến khi TCSH làm chuyên đề LỤT, điều đáng quý này mới được anh em làng văn phát hiện. Xin giới thiệu cùng bạn đọc những hồi ức của nhà thơ Lê Vĩnh Thái về những ngày đó. Câu chuyện được kể lại không màu mè, uyển ngữ, nhưng phía sau những câu chữ dung dị là những trái tim lấp lánh lòng nhân ái...

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCÁC MỘNG

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNKý ức tuổi thơ là một thung lũng xanh, mà nơi đó thời gian đã phủ lên từng phiến đá, gốc cây một lớp sương mù lãng đãng. Dù thực tế có gai góc đến đâu, nhưng khi nghĩ về kỷ niệm ấu thời, những người lớn - hiểu như là khách trần gian đang lần bước đến tuổi già - khi nào cũng thấy “ngày xưa đó” một cách rất êm đềm và dịu ngọt.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhìn con nước trôi lạnh lùng qua mọi ngõ ngách, màu nước buồn gợi lên trong ký ức tôi hình ảnh con hẻm dẫn vào xóm nhỏ ngoằn ngoèo cạnh dòng sông Hương thơ mộng. Những mái nhà lúp xúp, căn gác gỗ, những khuôn mặt ngơ ngác, xác xơ.

  • TRẦN HẠ THÁP                Tuỳ bútThường xuyên và dường như chưa bao giờ chấm dứt, Huế còn đó với biết bao nỗi lòng khi vào mùa nước nổi... Sống ở Huế qua thật nhiều năm tháng mới thấy đây không hẳn chỉ có thơ và mộng. Xứ miền luôn gợi tưởng một không gian đầy thanh thoát và dòng thời gian lững lờ, bất tận...“Một nửa sự thật vẫn chưa là chân lý”. Huế, ban tặng và mất mát.Hãnh diện cùng với xót xa. Ngợi ca bên cạnh nỗi niềm chưa bao giờ nói hết... Huế, kẻ dừng chân vui dựng sự nghiệp trăm năm. Người ôm bóng ra đi còn phiêu bạt mãi phương nào...

  • TRẦN HỮU LỤCCơn bão Ketsana - cơn bão số 9 đã đổ bộ vào đất liền khúc ruột miền Trung. Bão mạnh cấp 12,13, có lúc mạnh cấp 14,15. Trên sóng truyền hình và trên mạng, nơi cơn bão “không chờ đợi” đi qua, đã gieo rắc tang thương, khốn cùng dưới bầu trời mưa lên đến 477mm. Mực nước sông Hương dâng cao mấp mé cầu Trường Tiền. Các trường học ngập chìm trong nước bạc. Đầm Cầu Hai nước dâng cao sắp cuốn trôi nhà cửa, ruộng vườn ven bờ ra biển. Khu du lịch Lăng Cô nằm bên vịnh đẹp của thế giới chìm ngập trong biển nước. Những cây xanh trên đường phố bật gốc ngổn ngang. Hoàng thành Cố đô bị mưa lũ vây hãm. Nhà dân nghèo nhiều vùng miền bị tốc mái, đổ sập… Không thể kể hết mất mát, tang tóc ở quê nhà.

  • Nguyên Quân - Võ Văn Hoa - Khaly Chàm - Khả Lôi Nguyễn Việt Vương - Lê Huy Hạnh - Hồ Đắc Thiếu Anh

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNGHằng năm con tôi vẫn mua vé hàng không giá rẻ cho ba mạ về quê. Không biết trùng hợp hay người ta đã lường trước là mùa này không ai thèm đi du lịch ở xứ sở năm nào cũng bão lụt nên bán vé còn rẻ hơn đi xe đò. Về Huế ở lại một ngày đêm. Trời quang mây tạnh. Cứ ngỡ trời còn thương vợ chồng mình. Được một ngày rong chơi những con đường Huế. Mùa thu se lạnh. Sông Hương nước hơi đục nhưng cũng còn khá thơ mộng.

  • TRẦN THÙY MAI          Truyện ngắnThắm ôm con, day trở trên cái chõng tre cũ. Trời vẫn mưa. Mấy năm rồi, vào Nam làm ăn, đã quên đi cái mưa dầm sũng trời, sũng đất này. Dưới chõng là nền của cái nhà đã sập. Năm ngoái, xã mới xây cho cái nhà tình thương, năm nay cơn bão đi qua, nhà sập tan chỉ còn lại cái nền xi măng nứt nẻ.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYSáng nay bầu trời âm u màu xám xịt như muốn sụp đổ với những cơn mưa liên tục xối xả, báo hiệu con nước sắp vượt bờ dòng Hương.