O’Neil De Noux sinh ngày 29/11/1950 tại New Orleans, bang Louisiana, Hoa Kỳ. Ông là một nhà văn Hoa Kỳ có sức sáng tác mãnh liệt với nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, đã có 42 đầu sách được xuất bản. Phần lớn sáng tác của ông là truyện trinh thám hình sự, tuy nhiên ông cũng viết nhiều thể loại khác như tiểu thuyết lịch sử, truyện dành cho trẻ em, truyện khoa học viễn tưởng, kinh dị, tình cảm, v.v.
Ảnh: internet
De Noux là tác giả được giải thưởng Shamus Award về “Truyện ngắn Private Eye” năm 2007 với truyện ngắn “Sac-a-lait Man/ Người câu cá Thái dương” và “The Heart Has Reasons/ Trái tim có những lý do”. Năm 2009 ông được giải thưởng Derringer về Tiểu thuyết ngắn hay nhất với tác phẩm “Too Wise/ Quá khôn”. Tiểu thuyết “John Raven Beau” của ông được trang mạng Policewriters.com bình chọn là Best Police Book hay nhất năm 2011.
O’NEIL DE NOUX
Sự lựa chọn vĩnh viễn
Joe sửa cổ áo hồ bột chiếc sơ mi trắng của chàng khi bước lên mái hiên và kéo thẳng cà vạt trước khi ấn chuông cửa. Chàng lau mồ hôi ở bên mặt trước khi lo âu vỗ vỗ vào túi phải của chiếc áo vét màu xám, cảm nhận có chiếc hộp bên trong.
Cửa mở và thím Lucy của Arianne phát cho chàng một cái nhìn ngạc nhiên, tiếp theo đó là một nụ cười nhanh nhảu. “Tôi nghĩ cậu là Armand chớ,” bà ngượng ngùng thú nhận và mở cửa rộng hơn cho chàng.
Armand? Armand trở về sao?
Joe cố giữ cho mặt chàng không bộc lộ nỗi sợ đang bóp trái tim chàng. Thím Lucy lùi lại để chàng vào, một nụ cười gượng trên mặt bà.
Không! Hôm nay không như mọi ngày.
Joe đi theo sau cơ thể đầy đặn của thím Lucy vào phòng khách, ở đó bà phẩy tay về phía ghế sô pha và bảo chàng cứ tự nhiên. Bà cười nói gì đó về cái nồi đang đặt trên lò và để chàng ở đó, đứng giữa gian phòng vắng với ba cái ghế bành xanh thẫm và những tấm thảm Ba tư, những bức tranh chim của Audubon treo trên tường, ánh nắng chiếu qua những bức mành mành cửa sổ.
Joe nhắm mắt. Hôm nay, là một ngày chàng khắc vào tâm trí, sẽ không thể nào quên - Ngày 9 tháng Sáu, 1901. Ngày chàng sẽ cầu hôn Arianne. Chàng lại vỗ vỗ vào chiếc hộp và thấy rằng tay chàng run run. Chàng ngồi xuống chiếc ghế xô pha gần nhất và nhìn lên chiếc quạt trần đơn độc đang yếu ớt xua không khí nóng trong căn phòng ngột ngạt.
Joe, 24 tuổi, cao gần mét bảy, dáng người gầy với mái tóc nâu sẫm rẽ giữa và đôi mắt nâu sẫm. Hôm nay chàng mặc bộ đồ đẹp nhất của chàng, sơ mi màu xanh dương và đi giày đen mới. Chàng đã dừng lại chỗ cậu bé đánh giày khi rời căn hộ của chàng ở đường Camp, rất gần dãy các tòa soạn báo, ở đó chàng làm cho tờ The Eagle. Bảo đảm giày chàng không lấm bụi, chàng lên xe điện, lướt qua khu nhà đẹp hơn dọc theo đại lộ St.Charles trước khi xuống xe ở đường Felicity và đi bộ ba khối nhà đến ngôi nhà mới cất nơi Arianne sống cùng chú thím của nàng ở đường Queen Anne.
Chàng cảm thấy thắt ruột vì lo âu và dựa ngửa vào ghế xô pha, mắt nhắm, cố gắng giữ bình thản. Chàng không thể ngăn được chữ định mệnh châm chích mình, như một con ong tức giận. Chàng tin là định mệnh đã đưa chàng và Arianne đến với nhau vì cuộc gặp gỡ đầu tiên ở thư viện là khi họ suýt va vào nhau, nàng thì tìm cuốn Song of Hiawatha (Bài ca của Hiawatha) của Henry Wadsworth Longfellow, chàng thì tìm cuốn The Son of the Wolf (Con trai của Sói) của Jack London. Cả hai lúng túng vì sự vụng về của họ, mắt họ nói nhiều hơn những lời xin lỗi thì thầm. Đôi mắt xanh của Arianne dường như long lanh màu xanh ngọc vào buổi chiều hôm đó, và đôi môi đỏ của nàng như chín mọng ngọt ngào, một hình ảnh chàng sẽ không bao giờ quên. Lại là Định mệnh, đó là buổi tối chàng thấy nàng đi qua gian phòng ở tiệc tối nhà Overton. Nàng cười thân thiện khi thấy chàng lại gần. Định mệnh lại viếng thăm hai ngày sau, khi chàng dạo qua khu phố nhà nàng, để thu thập thông tin về tên trộm sáng sớm mà cảnh sát cuối cùng đã bắt được. Khi Arianne mở cửa, mắt nàng mở to, nàng phát ra một tiếng cười nhỏ, chống một tay lên hông và mời chàng vào uống một tách cà phê.
Định mệnh. Hôm nay là ngày chàng cầu hôn nàng. Thì Armand chọn hôm nay để lại trở về bước vào đời nàng, và không có gì Joe có thể làm trong chuyện này. Chàng thở ra một hơi dài và cảm thấy mình đang… thản nhiên. Không có gì chàng có thể làm về chuyện này.
Chàng giật mình vì tiếng chuông cửa và nhanh chóng đứng dậy, rồi lại ngồi xuống trước khi thím Lucy nhìn thấy. Chàng bắt tréo chân và cố tỏ ra không quan tâm khi thím Lucy đi ra cửa và phát ra một tiếng reo nhỏ.
Và Armand đứng đó dưới vòm nhà dẫn vào phòng khách. Anh cao và đứng thẳng, đang mặc bộ vét xám nhạt, gần như trắng bạc, thắt cà vạt đỏ thẫm, một bó hoa hồng trong bàn tay phải của anh. Thím Lucy đang nói bằng giọng thanh tao, những bông hồng mới sang trọng làm sao, Armand trông đẹp quá, làn da trông rám nắng khỏe quá.
*
Khi thím Lucy ra khỏi phòng, Armand thấy anh không chỉ một mình. Anh chàng nhỏ con đang ngồi trên ghế xô pha trông quen quen, nhưng Armand không thấy mặt. Anh ta đứng dậy và chìa tay ra. Armand chuyển bó hồng sang tay trái và bước lại gần.
“Anh có thể không nhớ tôi,” anh ta nói, “nhưng tôi học sau anh ba lớp ở trường St.Vincent. Là Joe Gort.”
Cái bắt tay chặt nhưng không quá mức. Không cần là một thiên tài mới đoán ra tại sao Joe ở đó, và Armand cảm thấy tim anh đang đập mạnh. Dĩ nhiên là Arianne hấp dẫn nhiều người đàn ông khác. Anh chỉ không đoán ra lúc này có một người đàn ông ở đây.
“Tôi nghĩ là tôi nhớ anh,” Armand nói và bước lùi lại. “Hiện nay anh làm gì?”
Joe không là một người xấu trai và có lẽ đang mặc bộ vét đẹp nhất của anh ta. Y như mình, Armand nghĩ.
“Tôi là phóng viên báo,” Joe nói. “Tôi làm cho tờ The Eagle của cảnh sát.”
Một người thuộc tầng lớp lao động. Một nghề được tôn trọng theo cách nào đó. Armand không muốn khoe khoang, nhưng khi vài phút trôi qua cùng nhịp với chiếc quạt trần, Armand thấy mình đang kể chuyện mình, vì được khuyến khích bởi chàng phóng viên Joe muốn tìm hiểu.
“Đã một năm, chính xác là gần một năm từ khi tôi đi,” Armand nói.
“Ở đâu tại Nam Mỹ?” lúc này Joe đang ngồi, Armand vẫn đứng tay cầm bó hoa hồng.
“Bolivia. Tôi giúp xây dựng hai chiếc cầu.” Kỹ sư Armand thực sự hãnh diện về công việc của anh ở Bolivia. Được thanh toán tài chính bởi những mỏ thiếc, nhóm người Mỹ của anh đã xây cầu sông Beni và một đường đèo sâu, hẹp dọc núi Illampu. Anh đã rời thành phố New Orleans, ở đây anh chỉ là một sinh viên đại học Tulane mới ra trường không có tiền đồ, chưa đủ giàu để cầu hôn cô gái anh yêu lấy anh, và nay trở về là một kỹ sư thành đạt với những lời mời tiếp tục công việc ở Chile và Argentina và một lời mời khác từ Ai Cập điện gửi cho anh ở trên tàu.
![]() |
Minh họa: NGÔ LAN HƯƠNG |
Armand Sebastian - 27 tuổi, tóc vàng nhạt màu hơn bởi được tẩy bởi ánh nắng gắt của mặt trời Nam Mỹ, da rám nắng, đã để một bộ ria mà anh đã cẩn thận chải bằng một chiếc lược chải ria nhỏ.
Những âm thanh nhẹ nhàng của bước chân làm Joe đứng lên và Armand quay lại khi Arianne bước vào. Nàng đứng với hai tay buông thõng, đôi mắt xanh sáng của nàng nhìn chuyển từ người này sang người kia.
Sức nhìn của Armand bất chợt mờ đi. Ký ức về vẻ đẹp của nàng trở nên nhạt nhòa khi so sánh với vẻ đẹp thật sự của nàng. Trong bộ đầm trắng giản dị bằng vải nhẹ, thường được khá nhiều phụ nữ vùng New Orleans mặc trong những mùa hè oi bức, Arianne như tỏa sáng. Có thể đó là vì ánh nắng chiếu vào từ phía sau lưng nàng.
Đường nét thân hình của Arianne nổi bật qua bộ áo đầm, tuy vẫn giấu bởi lớp vải nhưng bộc lộ những đường cong tự nhiên của nàng, cho đến chiều dài của đôi chân nàng. Mái tóc nâu đỏ của nàng nằm thành những lọn quăn dài thả qua bờ vai, như thể vừa được thổi bởi một cơn gió nhẹ đón mừng hai người đàn ông. Arianne, hai tuần nữa là đến sinh nhật tuổi hai mươi của nàng, cao 1m6 và sắp vào năm đầu đại học Sophie Newcomb vào học kỳ tới.
*
Joe chắc chắn những người kia có thể nghe được tiếng thình thịch của tim chàng. Chàng xúc động sâu sắc khi thấy môi dưới của Arianne run run trong khoảnh khắc. Nàng lo lắng, và chàng cảm thấy chàng đã thua khi cái nhìn của nàng chuyển từ chàng sang Armand và vương vấn ở đó.
Armand và Arianne. Bao nhiêu lần chàng đã nghe về cặp đôi này từ… mọi người? Nó luôn được nói lên với thì quá khứ bởi những người bạn của Arianne, với vẻ nuối tiếc. Chàng đã gặp Arianne lúc thất tình, những người bạn chàng ở tòa soạn thường nhắc chàng, gọi chàng là gã may mắn nhất bọn.
Và khi Arianne chầm chậm tiến đến chỗ Armand, là người đang đưa những bông hồng cho nàng, chàng lược qua những cái tên trong trí chàng. Lý do gì mà Arianne sẽ lấy Joe Gort để trở thành bà Arianne Gort, khi mà nàng hẳn có thể lấy Armand Sebastian, để trở thành bà Arianne Sebatian. Gort, một cái tên tầm thường. Cha của Joe từng cố đánh bóng nó: “Đó thật sự là tên của một ngôi làng Ái Nhĩ Lan dễ thương gần vịnh Galway.”
Joe cảm thấy cổ họng chàng khô khốc, nghĩ về người cha già của chàng, ông hẳn sẽ hoàn toàn ưa thích Arianne nếu ông còn sống. Nhìn xuống chân, Joe cảm thấy cảm xúc quen thuộc cũ của một thằng nhóc đường phố đang nhìn quý bà xinh đẹp và những người đàn ông của họ đang đi trên phố.
Người Ái Nhĩ Lan đen. Người trong gia đình Gort là người Ái Nhĩ Lan đen, mẹ chàng từng nói với chàng như vậy. “Người Ái Nhĩ Lan nghèo lấy những người Tây Ban Nha thua cuộc hải chiến Great Armada. Những người thoát khỏi trận chiến đẫm máu với người Anh và bị đắm thuyền dọc bờ biển Ái Nhĩ Lan, được cứu bởi những người Công giáo.” Đó chỉ là những lời chọc ghẹo của người mẹ Ái Nhĩ Lan tóc đỏ của chàng. Bà đã yêu mái tóc và đôi mắt đen của cha chàng, nhưng Joe sinh ra với màu da còn đậm hơn da của cha chàng, gần như màu quả ô liu, và những thằng nhóc trên đường Constance gọi chàng là dago - thằng Tây Ban Nha.
Armand Sebastian, cao ráo trong bộ vét màu bạc thì không phải là một dago, ngay cả với làn da màu đồng thiếc. Joe nhìn hai người họ đứng kế bên nhau, Armand đang nhìn gương mặt của Arianne khi nàng quay nhìn Joe và bất chợt có ở đó, ánh yêu thương trong đôi mắt nàng khi nàng nhìn chàng. Đó không phải là một ánh mắt thoáng qua. Ánh mắt đó không mất đi. Nhưng có phải nó là dành cho Armand?
Arianne lấy những bông hồng rồi đến bên một chiếc bình cắm vào, cẩn thận sắp xếp những bông hoa, và Joe nghe Armand đang nói điều gì đó về Paris.
“…những kỹ sư khắp thế giới đang đến đó. Hội chợ Thế giới là chương trình ánh sáng kỳ tuyệt nhất từng được tạo nên, dĩ nhiên sau khi mặt trời lặn. Hàng triệu ngọn đèn điện. Những hiệu quả kỳ tuyệt. Sảnh đường ảo giác là kỳ quan của thế kỷ mới.”
Armand quay sang Joe và nói, “Nhất định đó là tất cả những gì trên trang báo của anh từ tháng tư.” Joe cảm thấy được mồ hôi trên mặt anh bây giờ. Sự lo âu thì dễ lây lan.
Joe cảm thấy chính anh gật đầu, nhưng vì một bài báo khác đến trong trí, Stephen Crane chết vì bệnh lao ở Đức vào ngày năm tháng sáu. Không phải kiệt tác The Red Badge of Courage (Huy hiệu đỏ của lòng dũng cảm) về nước Mỹ của Crane đã làm Joe xúc động. Chính tác phẩm “Maggie: cô gái đường phố” của ông với hình ảnh đời sống khu ổ chuột hiện thực đã xúc động Joe. Lý do Crane xuất hiện trong trí tưởng làm chàng bối rối trong khoảnh khắc vì chàng nhớ chuyện nhà văn lớn này bị đắm tàu trong năm 1896 và trải qua bốn ngày trôi dạt trên biển, làm suy yếu sức khỏe của ông trong phần đời còn lại. Crane chết ở tuổi 28. Có thể là vì vậy. Cuộc đời quá ngắn và người đàn bà chàng yêu đang đứng cùng mối tình cũ của nàng. Một người đàn ông ngon lành hơn chàng.
*
Khi Arrianne quay lại từ những bông hồng nàng thấy chiếc hộp bọc vải nhung xanh trong tay Armand. Nàng sững sờ và ước gì nàng không nhìn thấy nó. Anh chầm chậm mở hộp cho thấy một viên kim cương chói lọi lớn đến mức tưởng như không là thật.
“Đến Paris với anh,” Armand nói, giọng anh gần như nghẹn ngào. “Anh sẽ không yêu bất kỳ người phụ nữ nào như anh yêu em. Hãy lấy anh và anh sẽ không bao giờ xa em nữa. Anh sẽ cho em cả thế giới.”
Nàng không nhìn mặt anh. Nàng nhìn viên kim cương chạm trổ và nhớ đến mối tình họ đã chia sẻ cho nhau, những đêm dài trò chuyện, những cuộc đi dạo tay trong tay, những nụ hôn phớt nhẹ, những quàng ôm ấm áp, tiếng trái tim nàng đập vọng lên đến tai nàng. Và rồi nàng nhớ nỗi đau khi anh bỏ đi, nôn nao, khi cuộc đời không như anh muốn và không có triển vọng việc làm ở đây và không có cách gì để lo cho nàng nếu họ lấy nhau. Anh đã bung đi để kiếm tương lai. Nhưng anh không viết thư về. Anh mặc nàng một mình. Anh đã đi thẳng cho tới khi có điện tín sáng nay và bây giờ là đây. Nàng từng mơ anh trở về với nàng, tưởng tượng những gì nàng sẽ cảm thấy khi nàng lại nhìn thấy mặt anh. Nhưng cảm xúc đột ngột trong ngực nàng không phải là cảm xúc như thế, không phải là tình yêu mà anh đã bỏ đi.
Arianne nhìn vào mắt của Armand, đó là khung cửa sổ mở vào tâm hồn của người đàn ông, và nhìn chúng trong khi tim hai người đập điên cuồng, khi cái quạt trần cứ quay trên đầu và người ta đi trên phố bên ngoài, và chiếc xe điện thì lách ca lách cách chạy lên chạy xuống đại lộ St.Charles và Joe Gort ngồi cách họ không đầy bốn mét. Nàng biết câu trả lời không có trong mắt của Armand. Dù anh yêu nàng nhiều đến bao nhiêu cũng không quan trọng. Điều quan trọng là từ nhịp đập trong trái tim nàng.
*
Joe ngồi trên ghế xô pha và nhắm mắt. Anh phải thoát khỏi cái mùi gây ra đau khổ từ những bông hồng, mùi luôn nhắc anh nhớ đến những đám tang. Lần này là đám tang của anh. Anh cố giữ nhịp thở và mất cả phút để vượt qua mặc cảm thấp kém tự nhiên để rắn rỏi trở lại. Hãy chiến đấu để có nàng! Mình yêu nàng. Mình yêu nàng. Và mình sẽ không hờn giận. Chàng đứng dậy, mở mắt và gần như là chạy lại phía Arianne.
Nàng đứng trước mặt chàng, và mắt họ trò chuyện, như chúng đã trò chuyện lần đầu tiên ở thư viện và nhiều ngày nhiều đêm kể từ khi đó. Gương mặt đáng yêu của nàng dường như sáng lên, mắt nàng long lanh, một nụ cười từ từ nở trên đôi môi mọng đỏ.
Chàng nhận ra chàng có chiếc hộp đựng nhẫn trong tay và cố cất nó trở lại vào túi áo khoác, nhưng bàn tay của Arianne bất chợt đặt lên bàn tay chàng và nhẹ nhàng kéo bàn tay chàng lên. Nàng mở hộp và nhìn chiếc nhẫn. Đó không phải là viên kim cương đủ một ca ra, và Joe phải trả góp hơn 20 lần để có nó, nhưng vàng là vàng 24 như vàng nhẫn của Armand.
Nhưng Arianne không thấy, không quan tâm về kích cỡ viên kim cương. Nàng hầu như thấy chiếc nhẫn qua ngấn nước mắt của nàng. Nàng lau mắt bằng bàn tay không cầm hộp và nhìn đôi mắt nhung nâu của Joe.
“Anh sẽ lấy em?” Đó là giọng nói của Arianne đầy cảm xúc.
Joe chỉ có thể gật đầu. Lời nói bị nghẹn trong cổ họng chàng.
Arianne hít một hơi dài và nói bằng giọng run run. “Em sẽ lấy anh Joseph Devin Gort.” Nàng vói tay chải một lọn tóc đen của Joe. “Anh chàng Ái Nhĩ Lan nhỏ bé của em.” Một nụ cười tươi bây giờ nở trên mặt nàng.
Armand cảm thấy một nhát đâm vào tim anh. Một lần nữa anh sững sờ vì sức mạnh của nỗi đau trừng phạt của vẻ đẹp nàng. Anh đã mất nàng.
Arianne và Joe ngồi trên ghế xô pha, mặt nhìn nhau, và Joe đeo nhẫn vào ngón tay nàng và nói, “Anh quá yêu em. Anh yêu em thiết tha. Anh sẽ luôn luôn…”.
Arianne đặt những ngón tay nàng lên môi chàng để chận lời chàng nói, rồi nàng rút tay về, nghiêng đầu sang bên và chồm tới, hé môi. Họ nhắm mắt khi môi họ chạm và trong khoảnh khắc của hơi thở, thế giới tan chảy.
Võ Hoàng Minh dịch
(Nguồn: https://www.saturdayeveningpost.com/2016/04/the-forever-choice/)
(TCSH387/05-2021)
MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.
PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.
DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.
MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.
HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.
GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.
VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.
NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.
S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.
JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.
KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.
ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.
KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.
LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.
YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.
KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.
KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.