O’Neil De Noux sinh ngày 29/11/1950 tại New Orleans, bang Louisiana, Hoa Kỳ. Ông là một nhà văn Hoa Kỳ có sức sáng tác mãnh liệt với nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, đã có 42 đầu sách được xuất bản. Phần lớn sáng tác của ông là truyện trinh thám hình sự, tuy nhiên ông cũng viết nhiều thể loại khác như tiểu thuyết lịch sử, truyện dành cho trẻ em, truyện khoa học viễn tưởng, kinh dị, tình cảm, v.v.
Ảnh: internet
De Noux là tác giả được giải thưởng Shamus Award về “Truyện ngắn Private Eye” năm 2007 với truyện ngắn “Sac-a-lait Man/ Người câu cá Thái dương” và “The Heart Has Reasons/ Trái tim có những lý do”. Năm 2009 ông được giải thưởng Derringer về Tiểu thuyết ngắn hay nhất với tác phẩm “Too Wise/ Quá khôn”. Tiểu thuyết “John Raven Beau” của ông được trang mạng Policewriters.com bình chọn là Best Police Book hay nhất năm 2011.
O’NEIL DE NOUX
Sự lựa chọn vĩnh viễn
Joe sửa cổ áo hồ bột chiếc sơ mi trắng của chàng khi bước lên mái hiên và kéo thẳng cà vạt trước khi ấn chuông cửa. Chàng lau mồ hôi ở bên mặt trước khi lo âu vỗ vỗ vào túi phải của chiếc áo vét màu xám, cảm nhận có chiếc hộp bên trong.
Cửa mở và thím Lucy của Arianne phát cho chàng một cái nhìn ngạc nhiên, tiếp theo đó là một nụ cười nhanh nhảu. “Tôi nghĩ cậu là Armand chớ,” bà ngượng ngùng thú nhận và mở cửa rộng hơn cho chàng.
Armand? Armand trở về sao?
Joe cố giữ cho mặt chàng không bộc lộ nỗi sợ đang bóp trái tim chàng. Thím Lucy lùi lại để chàng vào, một nụ cười gượng trên mặt bà.
Không! Hôm nay không như mọi ngày.
Joe đi theo sau cơ thể đầy đặn của thím Lucy vào phòng khách, ở đó bà phẩy tay về phía ghế sô pha và bảo chàng cứ tự nhiên. Bà cười nói gì đó về cái nồi đang đặt trên lò và để chàng ở đó, đứng giữa gian phòng vắng với ba cái ghế bành xanh thẫm và những tấm thảm Ba tư, những bức tranh chim của Audubon treo trên tường, ánh nắng chiếu qua những bức mành mành cửa sổ.
Joe nhắm mắt. Hôm nay, là một ngày chàng khắc vào tâm trí, sẽ không thể nào quên - Ngày 9 tháng Sáu, 1901. Ngày chàng sẽ cầu hôn Arianne. Chàng lại vỗ vỗ vào chiếc hộp và thấy rằng tay chàng run run. Chàng ngồi xuống chiếc ghế xô pha gần nhất và nhìn lên chiếc quạt trần đơn độc đang yếu ớt xua không khí nóng trong căn phòng ngột ngạt.
Joe, 24 tuổi, cao gần mét bảy, dáng người gầy với mái tóc nâu sẫm rẽ giữa và đôi mắt nâu sẫm. Hôm nay chàng mặc bộ đồ đẹp nhất của chàng, sơ mi màu xanh dương và đi giày đen mới. Chàng đã dừng lại chỗ cậu bé đánh giày khi rời căn hộ của chàng ở đường Camp, rất gần dãy các tòa soạn báo, ở đó chàng làm cho tờ The Eagle. Bảo đảm giày chàng không lấm bụi, chàng lên xe điện, lướt qua khu nhà đẹp hơn dọc theo đại lộ St.Charles trước khi xuống xe ở đường Felicity và đi bộ ba khối nhà đến ngôi nhà mới cất nơi Arianne sống cùng chú thím của nàng ở đường Queen Anne.
Chàng cảm thấy thắt ruột vì lo âu và dựa ngửa vào ghế xô pha, mắt nhắm, cố gắng giữ bình thản. Chàng không thể ngăn được chữ định mệnh châm chích mình, như một con ong tức giận. Chàng tin là định mệnh đã đưa chàng và Arianne đến với nhau vì cuộc gặp gỡ đầu tiên ở thư viện là khi họ suýt va vào nhau, nàng thì tìm cuốn Song of Hiawatha (Bài ca của Hiawatha) của Henry Wadsworth Longfellow, chàng thì tìm cuốn The Son of the Wolf (Con trai của Sói) của Jack London. Cả hai lúng túng vì sự vụng về của họ, mắt họ nói nhiều hơn những lời xin lỗi thì thầm. Đôi mắt xanh của Arianne dường như long lanh màu xanh ngọc vào buổi chiều hôm đó, và đôi môi đỏ của nàng như chín mọng ngọt ngào, một hình ảnh chàng sẽ không bao giờ quên. Lại là Định mệnh, đó là buổi tối chàng thấy nàng đi qua gian phòng ở tiệc tối nhà Overton. Nàng cười thân thiện khi thấy chàng lại gần. Định mệnh lại viếng thăm hai ngày sau, khi chàng dạo qua khu phố nhà nàng, để thu thập thông tin về tên trộm sáng sớm mà cảnh sát cuối cùng đã bắt được. Khi Arianne mở cửa, mắt nàng mở to, nàng phát ra một tiếng cười nhỏ, chống một tay lên hông và mời chàng vào uống một tách cà phê.
Định mệnh. Hôm nay là ngày chàng cầu hôn nàng. Thì Armand chọn hôm nay để lại trở về bước vào đời nàng, và không có gì Joe có thể làm trong chuyện này. Chàng thở ra một hơi dài và cảm thấy mình đang… thản nhiên. Không có gì chàng có thể làm về chuyện này.
Chàng giật mình vì tiếng chuông cửa và nhanh chóng đứng dậy, rồi lại ngồi xuống trước khi thím Lucy nhìn thấy. Chàng bắt tréo chân và cố tỏ ra không quan tâm khi thím Lucy đi ra cửa và phát ra một tiếng reo nhỏ.
Và Armand đứng đó dưới vòm nhà dẫn vào phòng khách. Anh cao và đứng thẳng, đang mặc bộ vét xám nhạt, gần như trắng bạc, thắt cà vạt đỏ thẫm, một bó hoa hồng trong bàn tay phải của anh. Thím Lucy đang nói bằng giọng thanh tao, những bông hồng mới sang trọng làm sao, Armand trông đẹp quá, làn da trông rám nắng khỏe quá.
*
Khi thím Lucy ra khỏi phòng, Armand thấy anh không chỉ một mình. Anh chàng nhỏ con đang ngồi trên ghế xô pha trông quen quen, nhưng Armand không thấy mặt. Anh ta đứng dậy và chìa tay ra. Armand chuyển bó hồng sang tay trái và bước lại gần.
“Anh có thể không nhớ tôi,” anh ta nói, “nhưng tôi học sau anh ba lớp ở trường St.Vincent. Là Joe Gort.”
Cái bắt tay chặt nhưng không quá mức. Không cần là một thiên tài mới đoán ra tại sao Joe ở đó, và Armand cảm thấy tim anh đang đập mạnh. Dĩ nhiên là Arianne hấp dẫn nhiều người đàn ông khác. Anh chỉ không đoán ra lúc này có một người đàn ông ở đây.
“Tôi nghĩ là tôi nhớ anh,” Armand nói và bước lùi lại. “Hiện nay anh làm gì?”
Joe không là một người xấu trai và có lẽ đang mặc bộ vét đẹp nhất của anh ta. Y như mình, Armand nghĩ.
“Tôi là phóng viên báo,” Joe nói. “Tôi làm cho tờ The Eagle của cảnh sát.”
Một người thuộc tầng lớp lao động. Một nghề được tôn trọng theo cách nào đó. Armand không muốn khoe khoang, nhưng khi vài phút trôi qua cùng nhịp với chiếc quạt trần, Armand thấy mình đang kể chuyện mình, vì được khuyến khích bởi chàng phóng viên Joe muốn tìm hiểu.
“Đã một năm, chính xác là gần một năm từ khi tôi đi,” Armand nói.
“Ở đâu tại Nam Mỹ?” lúc này Joe đang ngồi, Armand vẫn đứng tay cầm bó hoa hồng.
“Bolivia. Tôi giúp xây dựng hai chiếc cầu.” Kỹ sư Armand thực sự hãnh diện về công việc của anh ở Bolivia. Được thanh toán tài chính bởi những mỏ thiếc, nhóm người Mỹ của anh đã xây cầu sông Beni và một đường đèo sâu, hẹp dọc núi Illampu. Anh đã rời thành phố New Orleans, ở đây anh chỉ là một sinh viên đại học Tulane mới ra trường không có tiền đồ, chưa đủ giàu để cầu hôn cô gái anh yêu lấy anh, và nay trở về là một kỹ sư thành đạt với những lời mời tiếp tục công việc ở Chile và Argentina và một lời mời khác từ Ai Cập điện gửi cho anh ở trên tàu.
![]() |
Minh họa: NGÔ LAN HƯƠNG |
Armand Sebastian - 27 tuổi, tóc vàng nhạt màu hơn bởi được tẩy bởi ánh nắng gắt của mặt trời Nam Mỹ, da rám nắng, đã để một bộ ria mà anh đã cẩn thận chải bằng một chiếc lược chải ria nhỏ.
Những âm thanh nhẹ nhàng của bước chân làm Joe đứng lên và Armand quay lại khi Arianne bước vào. Nàng đứng với hai tay buông thõng, đôi mắt xanh sáng của nàng nhìn chuyển từ người này sang người kia.
Sức nhìn của Armand bất chợt mờ đi. Ký ức về vẻ đẹp của nàng trở nên nhạt nhòa khi so sánh với vẻ đẹp thật sự của nàng. Trong bộ đầm trắng giản dị bằng vải nhẹ, thường được khá nhiều phụ nữ vùng New Orleans mặc trong những mùa hè oi bức, Arianne như tỏa sáng. Có thể đó là vì ánh nắng chiếu vào từ phía sau lưng nàng.
Đường nét thân hình của Arianne nổi bật qua bộ áo đầm, tuy vẫn giấu bởi lớp vải nhưng bộc lộ những đường cong tự nhiên của nàng, cho đến chiều dài của đôi chân nàng. Mái tóc nâu đỏ của nàng nằm thành những lọn quăn dài thả qua bờ vai, như thể vừa được thổi bởi một cơn gió nhẹ đón mừng hai người đàn ông. Arianne, hai tuần nữa là đến sinh nhật tuổi hai mươi của nàng, cao 1m6 và sắp vào năm đầu đại học Sophie Newcomb vào học kỳ tới.
*
Joe chắc chắn những người kia có thể nghe được tiếng thình thịch của tim chàng. Chàng xúc động sâu sắc khi thấy môi dưới của Arianne run run trong khoảnh khắc. Nàng lo lắng, và chàng cảm thấy chàng đã thua khi cái nhìn của nàng chuyển từ chàng sang Armand và vương vấn ở đó.
Armand và Arianne. Bao nhiêu lần chàng đã nghe về cặp đôi này từ… mọi người? Nó luôn được nói lên với thì quá khứ bởi những người bạn của Arianne, với vẻ nuối tiếc. Chàng đã gặp Arianne lúc thất tình, những người bạn chàng ở tòa soạn thường nhắc chàng, gọi chàng là gã may mắn nhất bọn.
Và khi Arianne chầm chậm tiến đến chỗ Armand, là người đang đưa những bông hồng cho nàng, chàng lược qua những cái tên trong trí chàng. Lý do gì mà Arianne sẽ lấy Joe Gort để trở thành bà Arianne Gort, khi mà nàng hẳn có thể lấy Armand Sebastian, để trở thành bà Arianne Sebatian. Gort, một cái tên tầm thường. Cha của Joe từng cố đánh bóng nó: “Đó thật sự là tên của một ngôi làng Ái Nhĩ Lan dễ thương gần vịnh Galway.”
Joe cảm thấy cổ họng chàng khô khốc, nghĩ về người cha già của chàng, ông hẳn sẽ hoàn toàn ưa thích Arianne nếu ông còn sống. Nhìn xuống chân, Joe cảm thấy cảm xúc quen thuộc cũ của một thằng nhóc đường phố đang nhìn quý bà xinh đẹp và những người đàn ông của họ đang đi trên phố.
Người Ái Nhĩ Lan đen. Người trong gia đình Gort là người Ái Nhĩ Lan đen, mẹ chàng từng nói với chàng như vậy. “Người Ái Nhĩ Lan nghèo lấy những người Tây Ban Nha thua cuộc hải chiến Great Armada. Những người thoát khỏi trận chiến đẫm máu với người Anh và bị đắm thuyền dọc bờ biển Ái Nhĩ Lan, được cứu bởi những người Công giáo.” Đó chỉ là những lời chọc ghẹo của người mẹ Ái Nhĩ Lan tóc đỏ của chàng. Bà đã yêu mái tóc và đôi mắt đen của cha chàng, nhưng Joe sinh ra với màu da còn đậm hơn da của cha chàng, gần như màu quả ô liu, và những thằng nhóc trên đường Constance gọi chàng là dago - thằng Tây Ban Nha.
Armand Sebastian, cao ráo trong bộ vét màu bạc thì không phải là một dago, ngay cả với làn da màu đồng thiếc. Joe nhìn hai người họ đứng kế bên nhau, Armand đang nhìn gương mặt của Arianne khi nàng quay nhìn Joe và bất chợt có ở đó, ánh yêu thương trong đôi mắt nàng khi nàng nhìn chàng. Đó không phải là một ánh mắt thoáng qua. Ánh mắt đó không mất đi. Nhưng có phải nó là dành cho Armand?
Arianne lấy những bông hồng rồi đến bên một chiếc bình cắm vào, cẩn thận sắp xếp những bông hoa, và Joe nghe Armand đang nói điều gì đó về Paris.
“…những kỹ sư khắp thế giới đang đến đó. Hội chợ Thế giới là chương trình ánh sáng kỳ tuyệt nhất từng được tạo nên, dĩ nhiên sau khi mặt trời lặn. Hàng triệu ngọn đèn điện. Những hiệu quả kỳ tuyệt. Sảnh đường ảo giác là kỳ quan của thế kỷ mới.”
Armand quay sang Joe và nói, “Nhất định đó là tất cả những gì trên trang báo của anh từ tháng tư.” Joe cảm thấy được mồ hôi trên mặt anh bây giờ. Sự lo âu thì dễ lây lan.
Joe cảm thấy chính anh gật đầu, nhưng vì một bài báo khác đến trong trí, Stephen Crane chết vì bệnh lao ở Đức vào ngày năm tháng sáu. Không phải kiệt tác The Red Badge of Courage (Huy hiệu đỏ của lòng dũng cảm) về nước Mỹ của Crane đã làm Joe xúc động. Chính tác phẩm “Maggie: cô gái đường phố” của ông với hình ảnh đời sống khu ổ chuột hiện thực đã xúc động Joe. Lý do Crane xuất hiện trong trí tưởng làm chàng bối rối trong khoảnh khắc vì chàng nhớ chuyện nhà văn lớn này bị đắm tàu trong năm 1896 và trải qua bốn ngày trôi dạt trên biển, làm suy yếu sức khỏe của ông trong phần đời còn lại. Crane chết ở tuổi 28. Có thể là vì vậy. Cuộc đời quá ngắn và người đàn bà chàng yêu đang đứng cùng mối tình cũ của nàng. Một người đàn ông ngon lành hơn chàng.
*
Khi Arrianne quay lại từ những bông hồng nàng thấy chiếc hộp bọc vải nhung xanh trong tay Armand. Nàng sững sờ và ước gì nàng không nhìn thấy nó. Anh chầm chậm mở hộp cho thấy một viên kim cương chói lọi lớn đến mức tưởng như không là thật.
“Đến Paris với anh,” Armand nói, giọng anh gần như nghẹn ngào. “Anh sẽ không yêu bất kỳ người phụ nữ nào như anh yêu em. Hãy lấy anh và anh sẽ không bao giờ xa em nữa. Anh sẽ cho em cả thế giới.”
Nàng không nhìn mặt anh. Nàng nhìn viên kim cương chạm trổ và nhớ đến mối tình họ đã chia sẻ cho nhau, những đêm dài trò chuyện, những cuộc đi dạo tay trong tay, những nụ hôn phớt nhẹ, những quàng ôm ấm áp, tiếng trái tim nàng đập vọng lên đến tai nàng. Và rồi nàng nhớ nỗi đau khi anh bỏ đi, nôn nao, khi cuộc đời không như anh muốn và không có triển vọng việc làm ở đây và không có cách gì để lo cho nàng nếu họ lấy nhau. Anh đã bung đi để kiếm tương lai. Nhưng anh không viết thư về. Anh mặc nàng một mình. Anh đã đi thẳng cho tới khi có điện tín sáng nay và bây giờ là đây. Nàng từng mơ anh trở về với nàng, tưởng tượng những gì nàng sẽ cảm thấy khi nàng lại nhìn thấy mặt anh. Nhưng cảm xúc đột ngột trong ngực nàng không phải là cảm xúc như thế, không phải là tình yêu mà anh đã bỏ đi.
Arianne nhìn vào mắt của Armand, đó là khung cửa sổ mở vào tâm hồn của người đàn ông, và nhìn chúng trong khi tim hai người đập điên cuồng, khi cái quạt trần cứ quay trên đầu và người ta đi trên phố bên ngoài, và chiếc xe điện thì lách ca lách cách chạy lên chạy xuống đại lộ St.Charles và Joe Gort ngồi cách họ không đầy bốn mét. Nàng biết câu trả lời không có trong mắt của Armand. Dù anh yêu nàng nhiều đến bao nhiêu cũng không quan trọng. Điều quan trọng là từ nhịp đập trong trái tim nàng.
*
Joe ngồi trên ghế xô pha và nhắm mắt. Anh phải thoát khỏi cái mùi gây ra đau khổ từ những bông hồng, mùi luôn nhắc anh nhớ đến những đám tang. Lần này là đám tang của anh. Anh cố giữ nhịp thở và mất cả phút để vượt qua mặc cảm thấp kém tự nhiên để rắn rỏi trở lại. Hãy chiến đấu để có nàng! Mình yêu nàng. Mình yêu nàng. Và mình sẽ không hờn giận. Chàng đứng dậy, mở mắt và gần như là chạy lại phía Arianne.
Nàng đứng trước mặt chàng, và mắt họ trò chuyện, như chúng đã trò chuyện lần đầu tiên ở thư viện và nhiều ngày nhiều đêm kể từ khi đó. Gương mặt đáng yêu của nàng dường như sáng lên, mắt nàng long lanh, một nụ cười từ từ nở trên đôi môi mọng đỏ.
Chàng nhận ra chàng có chiếc hộp đựng nhẫn trong tay và cố cất nó trở lại vào túi áo khoác, nhưng bàn tay của Arianne bất chợt đặt lên bàn tay chàng và nhẹ nhàng kéo bàn tay chàng lên. Nàng mở hộp và nhìn chiếc nhẫn. Đó không phải là viên kim cương đủ một ca ra, và Joe phải trả góp hơn 20 lần để có nó, nhưng vàng là vàng 24 như vàng nhẫn của Armand.
Nhưng Arianne không thấy, không quan tâm về kích cỡ viên kim cương. Nàng hầu như thấy chiếc nhẫn qua ngấn nước mắt của nàng. Nàng lau mắt bằng bàn tay không cầm hộp và nhìn đôi mắt nhung nâu của Joe.
“Anh sẽ lấy em?” Đó là giọng nói của Arianne đầy cảm xúc.
Joe chỉ có thể gật đầu. Lời nói bị nghẹn trong cổ họng chàng.
Arianne hít một hơi dài và nói bằng giọng run run. “Em sẽ lấy anh Joseph Devin Gort.” Nàng vói tay chải một lọn tóc đen của Joe. “Anh chàng Ái Nhĩ Lan nhỏ bé của em.” Một nụ cười tươi bây giờ nở trên mặt nàng.
Armand cảm thấy một nhát đâm vào tim anh. Một lần nữa anh sững sờ vì sức mạnh của nỗi đau trừng phạt của vẻ đẹp nàng. Anh đã mất nàng.
Arianne và Joe ngồi trên ghế xô pha, mặt nhìn nhau, và Joe đeo nhẫn vào ngón tay nàng và nói, “Anh quá yêu em. Anh yêu em thiết tha. Anh sẽ luôn luôn…”.
Arianne đặt những ngón tay nàng lên môi chàng để chận lời chàng nói, rồi nàng rút tay về, nghiêng đầu sang bên và chồm tới, hé môi. Họ nhắm mắt khi môi họ chạm và trong khoảnh khắc của hơi thở, thế giới tan chảy.
Võ Hoàng Minh dịch
(Nguồn: https://www.saturdayeveningpost.com/2016/04/the-forever-choice/)
(TCSH387/05-2021)
SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.
BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.
JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).
KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...
MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.
YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.
MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!
AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.
HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.
OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979 những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.
NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.
OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.
BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.
RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.
TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết. TSCH
JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.
A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".
ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.
ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.