NGUYỄN KỲ
Cuộc vận động tranh cử và “đấu tranh nghị trường” trong thời kỳ 1936 - 1939 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo là một bộ phận đặc biệt trong cuộc đấu tranh vì quyền dân sinh dân chủ ở Việt Nam.
Tờ “Sông Hương tục bản” số 1 do Nguyễn Cửu Thạnh làm chủ nhiệm
Tuy diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng đây là lần duy nhất trong lịch sử Việt Nam, “đấu tranh nghị trường” trở thành bộ phận của phong trào yêu nước và cách mạng. Cùng với phong trào này, Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng duy nhất đã phát động được một cuộc đấu tranh giàu tính sáng tạo và có kết quả.
Ở cả nước lúc đó, từ sau Thế chiến I, thực dân Pháp đã cải tổ các cơ quan tư vấn và lập ra một số cơ quan “dân cử”, như Viện Dân Biểu Bắc Kỳ, Viện Dân biểu Trung Kỳ và Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Thực tế thì các cơ quan “dân cử”, “dân biểu” đó chỉ là các thiết chế bù nhìn, không có vai trò đáng kể gì trong cơ cấu quyền lực ở cả ba Kỳ. Các vị “dân biểu” và các “ông hội đồng” phần lớn là do người Pháp chọn ra từ trong tầng lớp người thượng lưu bản xứ, có thái độ thân chính quyền thực dân. Một số thành viên của các viện và hội đồng đó được chọn lựa thông qua bầu cử, nhưng quyền bầu cử và ứng cử cũng chỉ dành riêng cho tầng lớp thượng lưu bản xứ, quần chúng nhân dân, hay ngôn ngữ thời đó còn gọi là “phe bình dân”, hoàn toàn bị gạt ra ngoài.
Cuộc vận động bầu cử đầu tiên mà Đảng Cộng sản Đông Dương phát động và lãnh đạo quần chúng tham gia dưới danh nghĩa “Mặt trận Bình dân” là cuộc bầu cử Viện Dân biểu Trung Kỳ tổ chức vào tháng 8 năm 1937.
Trước đó, ngày 20 tháng 3 năm 1937, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã chỉ thị cho các cơ sở Đảng trên phạm vi toàn quốc: “Vô luận là cuộc tuyển cử gì, đảng ta có thể tham gia được là nên tham gia. Chúng ta cần lợi dụng các thời kỳ tranh cử mà tuyên truyền khẩu hiệu của ta, phải lợi dụng vào các cơ quan gọi là lập hiến mà bênh vực quyền lợi cho quần chúng lao động và các lớp dân chúng bị áp bức. Các cấp bộ đảng tương đương phải dự bị những người ra ứng cử trong các viện dân biểu, các hội đồng thành phố... thảo ra những chương trình hành động tối thiểu có thể thích hợp chung cho các lớp dân chúng để cho dễ kéo họ đi theo mình”.
Chỉ đạo của Đảng đối với cuộc đấu tranh nghị trường là rất rõ ràng. Xứ ủy Trung Kỳ đã chỉ đạo đảng cơ sở chuẩn bị tích cực cho cuộc vận động tranh cử. Mục đích chính là nhân dịp này tố cáo mạnh mẽ, hạ uy tín chính trị của bọn tay sai, đồng thời thông qua đó thức tỉnh, lôi kéo được đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, biến cuộc tranh cử thành một phong trào phản kháng mạnh mẽ của quần chúng. Giống như trong các cuộc vận động Đông Dương đại hội và “đón rước” Godart trước đây, hàng trăm cán bộ, đảng viên đã về các làng xã, nhà máy, khu phố... của hầu hết các tỉnh Trung Kỳ, nhất là ở Huế - trung tâm điểm của cuộc “đấu tranh nghị trường” toàn xứ.
Để phục vụ cho công tác vận động quần chúng và hướng dẫn phong trào, Xứ ủy Trung Kỳ chủ trương đẩy mạnh hoạt động trên báo chí công khai. Trong phong trào vận động dân chủ 1936 - 1939 ở Huế, báo chí là một công cụ đắc lực. Báo chí cách mạng xuất bản công khai đã ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương đường lối, phương hướng hoạt động của Đảng. Trong những năm 1927 - 1938, ở Huế có khoảng 20 tờ báo lần lượt ra đời, trong số đó tờ Nhành lúa, Sông Hương tục bản, Dân và Tiếng Dân là đóng vai trò quan trọng trong cuộc vận động dân chủ ở đây.
Lúc này tờ Nhành lúa do Xứ uỷ chủ trương, trong thời gian hoạt động từ ngày 15/1/ 1937 đến ngày 19/3/ 1937 ra được 9 số, đã bị cấm. Nhân lúc tờ báo Sông Hương của Phan Khôi do khó khăn về tài chính phải tạm đình bản, nhóm Nguyễn Cửu Thạnh đã chủ động mua lại tờ báo này và cho tái bản dưới tên gọi Sông Hương tục bản từ ngày 19 tháng 6 năm 1937. Trên thực tế, tờ báo này vừa là cơ quan tuyên truyền, vừa là trung tâm chỉ huy toàn bộ cuộc đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo trong cuộc vận động tranh cử ở Trung Kỳ.
Hỗ trợ một cách đắc lực cho cuộc đấu tranh nghị trường không thể không nói tới vai trò của tờ Sông Hương tục bản, đúng như nhận định trong cuốn Tổng quan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam (1925 - 2010): “Sông Hương tục bản tuy chỉ tồn tại gần 4 tháng, nhưng đã ghi lại những chiến công bất hủ trong một thời kỳ lịch sử đấu tranh ở Trung kỳ”.
![]() |
Tờ “Sông Hương tục bản” số 2 đưa tin về cuộc Tổng tuyển cử dân viện Trung Kỳ |
![]() |
Tờ “Sông Hương tục bản” đăng bài kêu gọi cử tri tỉnh táo trong bầu cử và đăng thơ đả kích các vị “nghị gật” |
![]() |
Kết quả bầu cử Trung kỳ trên Sông Hương, số 7, 19 tháng Tám 1937 |
Báo Sông Hương tục bản ban đầu vẫn để tên người sáng lập là Phan Khôi nhằm giữ thế hợp pháp về hình thức, song chủ nhiệm là Nguyễn Cửu Thạnh - một nhân sĩ dân chủ gần với Đảng, có liên hệ mật thiết với đồng chí Nguyễn Khoa Văn trước đó chủ biên tờ Nhành Lúa. Trụ sở của tòa soạn được đặt tại số 68, phố Jules Ferry, Huế. Những bài vở chính được Phan Đăng Lưu và Tôn Quang Phiệt trực tiếp chỉ đạo, viết ở Huế rồi gửi ra Vinh cho Ngô Đức Mậu sắp xếp, trình bày, viết thêm tin cho đầy trang, sửa bản in thử do Nhà in Vương Đình Châu ở Vinh in và phát hành ngay tại đó.
Trong số 5 (ra ngày 14/7/1937), Sông Hương tục bản đã đăng bản “Chương trình của chúng tôi”, nêu các mục tiêu cải cách nhằm bảo đảm các quyền dân sinh, dân chủ, thiết thực và tối thiểu cho các tầng lớp dân chúng như: “Mở rộng quyền hạn Viện Dân biểu”, “Đi đến phổ thông đầu phiếu”, “Sửa đổi chế độ thuế thân”; “Giảm thuế điền thổ và bỏ hẳn bách phân phụ hạp, bỏ tu tích”; “Bỏ các độc quyền về rượu và thuốc phiện”… “Chương trình của chúng tôi” đáp ứng đúng nguyện vọng của nhiều tầng lớp nhân dân nên được đông đảo dân chúng Trung kỳ hoan nghênh.
Trong khi đó các nghị sĩ thuộc phe thân chính quyền thực dân lại tiến hành mua chuộc cử tri bằng nhiều hình thức. Trước thực trạng này, Sông Hương tục bản (số 3) đã nghiêm khắc lên án: “Vì sẵn có một bọn người khốn nạn lợi dụng cái chỗ làm qua chuyện của các bạn đó để lọt vào nghị trường kiếm một chân nghị viên để mưu đồ lợi ích riêng, để chạy cửa này, chui cửa nọ, kiếm miếng này miếng khác, mặc kệ dân miễn mình có đồ lãnh thầu, có thuốc phiện hút, có tiền đánh bạc, có lương thường trực để chơi gái Sông Hương”... Và kêu gọi: “Các bạn chớ vì một chén rượu, một số tiền, một tiếng hứa suông, một lời dọa dẫm mà làm sai mất cái phận sự của một người dân đi bầu cử trong giờ nghiêm trọng này”.
Bên cạnh các bài xã luận, bình luận, nhiều mẩu chuyện văn học đã khiến cho Sông Hương tục bản có những nét sắc sảo, đậm đà, đầy sinh khí. Đặc biệt là những tiểu phẩm đả kích những vị tai to mặt lớn, nhiều năm làm quan nghị, “đắc cử nhiều khóa, ra vào quan Thượng, quan Khâm như đi chợ”… Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, báo chí Việt Nam đả kích đích danh các ông “nghị gật”. Sau đây là một bài vè được đăng trên báo Sông Hương tục bản số 4:
“Các cử tri ơi: ở đời nhiều thứ nghị viên:
Nghị thì giết heo đãi khách, nghị thì xuất tiền mua thăm.
Làm ông nghị trên thì đua đai vật cầm,
Làm ông nghị, dưới thì phải tốn kém đến bạc trăm, bạc nghìn.”
Đây là bài hát nói “Có vài ông nghị” trên Sông Hương tục bản số 3:
“Trong thiên hạ có vài ông nghị
Chỉ ăn no ngủ kỹ ở trên lầu
Nào việc dân việc nước đâu đâu
Mượn tiếng nghị mà làm giàu cho dễ
Thuế nặng sưu cao thôi mặc kệ
Lương nhiều ngôi quý ấy là tiên
Cứ mỗi năm đi hội nghị một phen
Về lộ phí đã có tiền phụ cấp
Rượu cứ uống tiệc cứ ăn
Thuốc nha phiến cứ tiêm
Trống cô đầu cứ đập
Chớ nói gì mà dính dấp đến dân quyền
Sợ rằng trái ý quan trên”.
Các bài viết như: “Chương trình dự thảo của dân biểu Trung Kỳ” (số 13), “Bức thư công khai kính gửi các ông dân biểu Trung Kỳ” và “Chương trình hành động của ông nghị Huỳnh Văn Trần, Bình Định” đã nêu phương hướng, nhiệm vụ hành động mà quần chúng nhân dân và cử tri đòi hỏi “các nghị viên”, đồng thời là chỗ dựa về mặt chính trị - xã hội cho các nghị viên dân chủ đấu tranh với các thế lực phản động trong và ngoài Viện.
Sông Hương tục bản cũng vừa chân thành, vừa nghiêm khắc tuyên bố rõ nguyên tắc tham gia cuộc vận động bầu cử của “phe Bình dân”: “Không kể thanh niên hay lão đại, tân học hay cựu học, hễ thành tâm vì dân vì nước mà mưu việc công ích thì chúng tôi hết sức ủng hộ”.
Kết quả là “phe Bình dân” đã giành thắng lợi áp đảo trong bầu cử: toàn bộ 18 ứng cử viên do “phe Bình dân” ủng hộ, trong đó có ba chiến sĩ cộng sản, đều đắc cử, trở thành nghị viên của Viện Dân biểu Trung Kỳ.
Thừa Thiên Huế là địa bàn quan trọng của hoạt động đấu tranh nghị trường, Đảng bộ Tỉnh đã mở cuộc vận động nhân dân bỏ phiếu cho các ứng cử viên được Mặt trân Dân chủ giới thiệu, kết quả các chức vụ chủ chốt của Viện Dân biểu như: Viện trưởng, viện phó, chánh thư ký, uỷ viên thường trực đều là người của Mặt trận dân chủ.
Những vị dân biểu do Đảng giới thiệu và nhân dân bầu ra đã làm rất tốt chức trách của mình. Đơn cử, Đảng Cộng sản Đông Dương đã vận động cụ Hoàng Đức Trạch ứng cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ và cụ đã trúng cử với số phiếu cao nhất. Cụ đã mang chủ trương của Đảng để đấu tranh cho lợi ích nhân dân của toàn xứ Trung Kỳ. Cụ cùng các nghị viên tiến bộ trong Viện Dân biểu Trung Kỳ sử dụng diễn đàn công khai, lên án sự bất công của dự án tăng thuế của chính quyền thực dân, bênh vực lợi ích của nhân dân. Về sau, cụ đã trở thành vị Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh, tham gia chính quyền trong những năm 1946 - 1952 đầy chông gai, thử thách.
Sau 4 tháng hoạt động, từ 19/6/1937 đến 16/10/1937, Sông Hương tục bản bị Pháp đình bản. Tuy nhiên, lúc này nó gần như đã hoàn thành sứ mệnh.
N.K
(SHSDB25/06-2017)
Kỷ niệm 100 năm Trường Đồng Khánh
BÙI KIM CHI
50 năm ngày mất Giáo sư Đặng Văn Ngữ
ĐẶNG NHẬT MINH
Nhân 110 năm ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC (1907 - 2017)
TRẦN VIẾT NGẠC
NGUYỄN HOÀNG THẢO
Trước khi có chợ, bên ngoài cửa Ðông Ba (cửa Chánh Đông) dưới thời vua Gia Long có một cái chợ lớn mang tên “Qui Giả thị” - chợ của những người trở về.
DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ
Thú thật với độc giả, một trong những điều vui thú nhất của tôi - cho tới nay tôi vẫn say mê - là sưu tầm khảo cứu về Phổ trạng (tức là lai lịch, nguồn gốc...) của các nhân vật lịch sử như Ngô Quyền, Nguyễn Xý, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sư Mạnh...
LÂM QUANG MINH
Tôi không có vinh dự như nhiều anh chị em cán bộ, dũng sĩ từ miền Nam ra Bắc công tác, học tập hay chữa bệnh, được trực tiếp gặp Bác Hồ, được Bác ân cần động viên dạy bảo, được cùng ngồi ăn cơm với Bác, được Bác chia bánh chia kẹo... như người cha, người ông đối với các con cháu đi xa về.
THANH HẢI
Hồi ký
Tháng 10 năm 1962, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc. Lần đó một vinh dự lớn nhất của chúng tôi là được gặp Hồ Chủ Tịch.
Giáo sư Bửu Ý, tên đầy đủ là Nguyễn Phước Bửu Ý, sinh năm 1937 tại Huế. Ông vừa là nhà giáo, nhà văn, vừa là dịch giả của các tiểu thuyết nổi tiếng như Nhật kí của Anna Frank, Đứa con đi hoang trở về, Bọn làm bạc giả của André Gide, Con lừa và tôi của Juan Ramón Jiménez; Thư gửi con tin của Antoine de Saint-Exupéry… đăng trên các tạp chí Mai, Văn, Diễn đàn, Phố Văn (trước 1975).
I. Nhớ hơn bốn mươi năm về trước, vào khoảng đầu mùa đông năm 1974 - mùa dỡ củ dong riềng - tôi đi chợ Chũ (Lục Ngạn), mua được tập truyện Khúc sông. Trên lối mòn đường rừng, bước thấp bước cao, tôi vừa đi vừa tranh thủ đọc. Ngày ấy, tôi chỉ biết tên tác giả là Nguyễn Thiều Nam, nào có biết đẳng cấp của ông trong làng văn ra sao!
Sinh thời, cha tôi – họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc, hầu như không bao giờ nhắc đến những năm học vẽ ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (MTĐD).
HỒ QUỐC HÙNG
(Thân mến tặng các bạn lớp Văn K9 - Đại học Tổng hợp Huế)
Ai cũng có kho ký ức riêng cho chính mình như một thứ tài sản vô hình. Ký ức lại có những vùng tối, vùng sáng và lúc nào đó bất chợt hiện lên, kết nối quá khứ với hiện tại, làm cho cuộc sống thêm ý vị.
TRẦN VĂN KHÊ
Hồi ký
Có những bài thơ không bao giờ được in ra thành tập.
Có những bài thơ chỉ còn ghi lại trong trí nhớ của tác giả và của đôi người may mắn đã được đọc qua một đôi lần.
Ngắm nhìn vẻ đẹp tinh khiết của cô nữ sinh Đồng Khánh dưới vành nón Huế, trong chiếc áo dài trắng tinh khôi, không ai nghĩ chỉ ít năm sau ngày chụp bức ảnh chân dung ấy, chị chính là nạn nhân của một chế độ lao tù tàn bạo và nghiệt ngã.
Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố. Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Hồi những năm 1950, làng Trúc Lâm quê tôi thuộc vùng du kích ven thành phố Huế.
QUẾ HƯƠNG
Ngày 15/7/2017 tới đây, ngôi trường hồng diễm lệ nằm cạnh trường Quốc Học, từng mang tên vị vua yểu mệnh Đồng Khánh chạm ngưỡng trăm năm.
THÁI KIM LAN
Trong những hình ảnh về ngày Tết mà tôi còn giữ được thời thơ ấu, thì Tết đối với tôi là Tết Bà, mà tôi gọi là Tết Mệ Nội chứ không phải Tết Mạ. Bởi vì mỗi khi Tết đến, cả đại gia đình chúng tôi đều kéo nhau lên nhà Từ đường “ăn Tết", có nghĩa quây quần chung quanh vị phu nhân trưởng tộc của dòng họ là bà nội tôi.
TRẦN VIẾT NGẠC
Báo Xuân xưa nay luôn là số báo đẹp nhất, phong phú nhất trong một năm. Bài vở số Xuân được tòa soạn đặt bài trước cho các cây bút thân quen, nổi tiếng từ mấy tháng trước.
NGUYÊN HƯƠNG
Trong đời, người ta ai cũng nên phải lòng một vùng đất. Cảm giác đó thật đặc biệt, giống như khi ta một mình đi đêm về sáng, bỗng gặp đóa hoa cô đơn thức sớm nở ngoài thềm, thấy thương.
BÙI KIM CHI
Tôi đã rất xúc động. Lòng rưng rưng bồi hồi khi tình cờ nghe được bài hát “Quê hương tuổi thơ tôi” của Từ Huy trong VCD họp mặt Đồng Hương Sịa lần đầu tiên ở Little Sài Gòn, Nam Cali…