Quảng Điền đang lo sau lũ

10:39 31/10/2009
YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.

Từ ngày giải phóng đến nay, chưa có năm nào được mùa lớn như năm 1999 này. Thật tội. Được mùa ngoài đồng, nhưng lại mất mùa ngay trong chính nhà mình. Nhìn mười mươi ngay trước mặt cả kho lúa lên mậm, mà chịu, gạt nước mắt, bó tay.

Kể chuyện lụt, anh Nguyễn Văn Hinh chủ tịch huyện lắc đầu:

- Sau 10 năm chia huyện, Quảng Điền cố gắng xây dựng cơ sở hạ tầng, hy vọng xã hội mỗi ngày một khá lên, ai ngờ một trận lụt mất trắng hoàn toàn. Bây giờ Quảng Điền lại bắt đầu từ hai bàn tay trắng.

Chưa bao giờ nước ập xuống Quảng Điền nhanh thế. Mới buổi sáng nước ở cổng huyện mới ngập bàn chân. Đến trưa nước đã mênh mông, quá ngực. Xã ngập sâu nhất là Quảng An. Có chỗ sâu tới hơn 4 mét nước. Dân cả huyện chỉ kịp "bỏ của chạy lấy người".

Các nhà cao tầng lần này được việc. Hơn 1000 người dân chạy tới các cơ quan huyện trú ngụ. Đây là dịp huyện được trực tiếp nuôi đồng bào của mình ngay trong cơ quan huyện.

Quãng đê Nho Lâm bên sông Bồ lại vỡ. Nước đổ vào cuồn cuộn. 1200 dân Quảng Thành đổ xô vào ở trong ngôi trường trung học cơ sở của xã. Mọi thứ dân đem tới thành của chung, chia nhau sống qua ngày chờ nước rút.


(Hàng cứu trợ ở xã Quảng Thành - Ảnh: Nguyễn Văn Thanh)


Không có những ngôi nhà cao tầng ấy, người dân sẽ rất khó khăn tìm được chỗ bấu víu khi bốn bề là nước mênh mông. Chỉ trớ trêu thay ngôi nhà trụ sở của xã Quảng Phước vừa xây xong với vốn chi phí 360 triệu đồng. Sáu chục người dân Quảng Phước quanh đó chạy tới trụ sở. Đêm nước vỡ đê Sịa, chảy vào như thác. Ngôi trụ sở mới rung rinh, đổ sạt một góc mái, may không ai việc gì. Ngày hôm sau nhìn ra, bốn bề mênh mông nước. 60 người kêu cứu. Xã đưa thuyền tới. Vừa đưa xong 60 người ra khỏi ngôi nhà cao tầng thì do nước khoét sâu dưới móng, nhà sập. Thật hú vía.

Nhớ có độn cát cao, dân Quảng Phước chạy cả lên đó. Căng ni-lông cạnh các bờ tường lăng mộ. Túm tụm nhau. Chia nhau từng củ khoai, lon gạo. Một phần dân chủ quan. Mưa gió mùa đông bắc đâu có lớn đến thế. Nước lụt cao không ngờ dân trở tay không kịp, chỉ kịp trèo lên xà nhà, bám mái. Dân 2 thôn Uất Mậu, Vân Càng mỗi ngày nấu tới 2 tạ gạo, vắt từng vắt, chở ghe đến gõ cửa từng nhà đưa cơm cho người đang nằm trên xà. Riêng việc đó cũng đã là một kỳ công.

Gian khổ nhất là nhân dân hai xã Quảng Ngạn, Quảng Công ở bên kia phá Tam Giang. Một dải đất cát dài mấy cây số, vốn đã biệt lập với đất liền. Có gió lớn, thuyền qua phá Tam Giang sẽ bị lật ngay. Lũ lần này Quảng Ngạn, Quảng Công bị biệt lập hoàn toàn. Nhưng đó là một thử thách. Dân phía bờ phá gồm các thôn Cương Gián, Phường An, Thông Thiền, An Lộc làm ruộng, nuôi tôm. Đất đai ở đây ít, mỗi khẩu mươi thước đất là cùng. Sau mỗi mùa, gia đình nào có dăm tạ lúa đã là khá. Dân phía ngoài bờ biển thuộc các thôn Lãnh Thủy, Thành Công, Tân Mỹ A, Tân Mỹ B, Tân Mỹ C đánh cá. Có được hỗ trợ của nước ngoài, nên xây được nhà kiên cố.

Lũ về, dân nông nghiệp ngập, chới với. Dân các làng chài ngư nghiệp ven biển hò nhau vác thuyền chạy qua bãi cát về cứu dân nông nghiệp. Đưa tới 2000 người qua làng biển sống những ngày lũ lớn. Lúc thường, kéo thuyền ghe từ biển lên cát đã khó. Vậy mà lúc cần, vác được thuyền chạy qua bãi cát là cả một huyền thoại không ai ngờ tới. Lúc chia tay, dân ngư nghiệp còn cứu trợ cho dân nông nghiệp được 20 tấn gạo.

Anh Nguyễn Văn Giải, phó chủ tịch huyện Quảng Điền bùi ngùi:

- Quảng Điền mất mát rất nhiều, song cái được của Quảng Điền là tình người. Đây là dịp dân Quảng Điền hiểu nhau, quý mến nhau, không phải từng xóm, từng làng, mà cả huyện đùm bọc nhau như thời chiến tranh vậy.

Bây giờ cơn lũ đã qua rồi, nhưng trước mắt Quảng Điền còn đang rất bộn bề.

Một là phải tổ chức lại đời sống cho dân. Quảng Điền có 9 vạn dân. Hiện tại 6 vạn người bị nước lũ cướp mất hết lúa gạo, không còn hạt thóc trong nhà. Với họ đói không phải một vài ngày một vài tháng, ít nhất phải sáu tháng sau, khi gặt lúa mùa, dân mới tự túc được.

Tôi hỏi anh Giải:

- Kế hoạch cứu đói của huyện thế nào?

Anh Giải thành thật đáp:

- Chúng tôi chỉ còn cách là trông chờ vào lương thực cứu trợ. Riêng số 3 vạn người bị trôi hơn 5000 ngôi nhà, họ không có nhà ở, đang ở tạm nhà bà con, chúng tôi sẽ kêu gọi bà con trong huyện giúp đỡ tre, tranh để số 3 vạn người ấy có chỗ che nắng mưa. Sau đó từng bước sẽ tính dần. Một huyện nông nghiệp, ngập như nhau mất như nhau, rất khó gỡ. Cũng không phải gỡ trong một hai ngày.

Hai là Quảng Điền đang rất cần vốn. Dân Quảng Điền có hai nghề chính: đánh cá và làm ruộng. Ngư dân bị chìm, vỡ tới 670 chiếc thuyền. Vốn của họ ở đó. Đời sống của họ cũng ở đó. Không nhanh chóng phục hồi được thuyền thì coi như bó tay, không thể khai thác tôm cá ngoài khơi được. Tội nhất là dân nuôi tôm. Huyện động viên họ dốc hết vốn ra xây dựng được 300 hécta hồ nuôi tôm. Bây giờ bờ hồ bị nước, bị sóng đánh tan tác, chưa xác định được thiệt hại là bao nhiêu. Hồ mất, tôm đang nuôi bị mất. Làm thế nào để họ có vốn tiếp tục sản xuất.

Nông dân mất lúa ăn và nguy hiểm hơn là mất cả lúa giống. Để có đủ thóc giống cho vụ mùa tới đây, toàn huyện cần tới 3000 tấn giống. Không phải chỉ hạt lúa giống là đủ. Giống của Quảng Điền đã được thuần hóa cho từng chân ruộng. Nếu không năng suất sẽ không được bảo đảm.

Để chuẩn bị cho mùa lúa, Quảng Điền phải lo lại toàn bộ hệ thống đê ngăn mặn, đê ở các đập nước và các đường nương dẫn nước về từng ruộng lúa.

Từ đây tới lúc cày bừa cấy cây lúa xuống, làm cỏ, gặt hái là cả một chặng đường dài đối với người nông dân.

Ba là: Một phần ba dân Quảng Điền dùng nước tự nhiên để sinh hoạt, hai phần ba dùng nước giếng. Cả nước tự nhiên lẫn nước giếng hiện tại đang bị ô nhiễm rất nặng. Người dùng nước giếng có thể tát hết nước rồi khử trùng. Còn nước tự nhiên thì tính sao đây. Hàng vạn con trâu bò, lợn gà chết bắt đầu vào giai đoạn thối rữa. Dùng nước tự nhiên chắc chắn không tránh khỏi dịch bệnh. Chúng tôi đang rất lo.

Người nông dân Quảng Điền, ngoài lúa là đời sống chính, họ còn chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn nái để cải thiện đời sống. Tổng số lợn nái của huyện là 7000 con. Tất cả 7000 con ấy đã theo dòng nước cuốn trôi hết. Lấy đâu ra ngần ấy con giống và tiền đầu tư cho những thế hệ lợn tiếp theo.

Càng đi, càng thấy Quảng Điền biết bao nhiêu lo toan, sau vụ lũ lụt kinh hoàng này. Đi vào làng nào cũng ngửi thấy mùi súc vật chết và mùi thóc ngâm lâu ngày chua loét. Họ đem phơi dọc đường. Không biết có nuôi nổi heo gà không.

Các đoàn y tế của tỉnh đã về giúp Quảng Điền khắc phục môi trường.

Các đoàn cứu trợ vẫn tiếp tục đưa hàng về tận xã giúp dân. Cho tới ngày 10-11-1999 Quảng Điền đã nhận được 173 tấn gạo, 38.000 gói mì ăn liền, 6 tấn dầu, 20.518 chiếc quần áo. Số cứu trợ ấy còn rất xa với yêu cầu của Quảng Điền.

Quảng Điền đang trắng tay, đang đứng trước vô vàn khó khăn. Tỉnh và nhân dân cả nước sẽ không bỏ Quảng Điền. Song để đứng vững, Quảng Điền sẽ phải nỗ lực vô cùng.

Y.C
(130/12-1999)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN HỮU NHÀN                     Ghi chép Ngày nay đồng bào cả nước nô nức về Phú Thọ để tưởng niệm Vua Hùng. Theo sử sách cổ của Trung Hoa thì ông Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều pháp thuật, quyền năng phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương (1).

  • TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                     Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.

  • HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                        Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.

  • NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ                     Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.

  • VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…

  • NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.

  • NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.

  • HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.

  • NGÔ MINH             Ghi chép

  • NGUYỄN THANH TÚ                          Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

  • NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                       Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này:                “Đánh cho giặc Mỹ tan tành                Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”

  • …Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG                                Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...

  • NGUYỄN VĂN VINH                                 Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui