ĐÔNG HÀ
Người ta mỗi ngày thường hay nhìn tới để đi, nhưng cũng nhiều lúc, chọn cho mình một góc riêng tư, lại thường nhớ về những nỗi nhớ.
Chiều về. Ảnh Đồng Minh Đống
Những lúc như vậy, tôi thường nhớ về những con đường. Chọn một góc quán quen, tôi nhìn sâu vào tâm tưởng để nghe lao xao ngoài hiên hạ, và chờ đợi những ký ức trở về như một người bạn hiền tri kỷ. Khi mà ngoài phố kia, chút nữa thôi, người sẽ vắng, lá sẽ xanh, đèn sẽ vàng, mưa chỉ vừa đổ bụi... Con đường thì miên man miên man... Đường dài đi một mình không bao giờ hết. Hoặc, nếu có ai hào phóng, cho mượn một bàn tay, dắt như một ví dụ qua cầu...
Rồi tôi ngồi mình hình dung, những con đường nghe lá hát xôn xao. Những con phố quen lạ bước chân, quen lạ dấu môi hôn, quen lạ những nụ cười, quen lạ những ánh mắt... Mà đôi khi không cần lạ quen, chỉ cần bước chân là đi dừng chân có chỗ dựa... Là ấm êm vô cùng...
Năm xưa... Một đêm nào đó, cũng trong trời đất này... Rất nhiều chúng ta đã cùng đan nhau đi trong đêm mờ mịt sương khói ấy. Nhắm mắt và hình dung. Bắt đầu từ Chiều. Ừ. Chiều. Chiều thuở ấy còn lãng đãng khói sương của khung cửa cài then tĩnh mịch. Tôi không nhớ bắt đầu từ đâu mà vào đấy. Hình như từ một người bạn quen với chủ nhà. Khi đó chưa thành quán. Một buổi khuya khoắt, đi đâu đó rã rời, thì cả bọn túm tụm lại bước vào. Căn nhà im lặng lọt thỏm giữa thành quách. Nhớ, chỉ một bước chân thôi, là từ ngoài đường lọt hẳn vào giữa nhà. Không phên dậu, không che chắn, mở ơ hờ như một tình nhân ngồi đó đợi. Rồi không biết đâu, một can rượu trắng được bày ra giữa cái bàn gốc cây. Rồi uống lặng lẽ. Thầm thì. Thời đó không ai yêu nhau, chỉ yêu cái thầm thì của nhau trong tình ánh mắt nét cười. Thời đó, hình như chữ yêu nghe tội lỗi đầy mình, và nghe như yêu rồi thì không cách gì mà hàn gắn nhau lại. Nên cái đêm ngập ngừng dưới ngọn đèn bạch lạp, những đứa con gái tóc dài mắt nhung thuở ấy, cũng can trường mà nâng ly ngang mày không ngần ngại. Và cũng khi ngồi đó, dưới màu đèn vàng dìu dặt, tôi lại nhớ những năm tháng mù khơi ra đi tưởng không thể quay về. Những đêm nào trong tâm tưởng giờ lại ồn ào xao động. Không cụ thể một ai, không cụ thể nơi nào... nhưng đẹp. Những sự đẹp trong veo. Những sự đẹp mà sau này bất chợt thoáng gặp đâu đó trên đường đời thường khiến tôi mỉm cười và nghe lòng dâng lên một nỗi dịu dàng ấm áp. Tất nhiên, thời của đèn vàng mù khơi đó, cái buồn cũng mang sự đẹp trong veo.
Rời Chiều lúc nửa đêm. Những bước chân chung chiêng lại kéo nhau qua con đường Phượng bay đầy diễm lệ. Đêm đẹp đến ngợp thở. Hai hàng lá đan nhau. Sương ơi là sương... Mờ mịt rớt xuống tóc, xuống vai... Những bước chân chệch choạng kéo nhau đi. Thi thoảng dụi vào vai nhau cho mỗi bước đi không vững. Bệt xuống một góc thành, ngồi chạm xuống đám rêu mà nghe trăm năm ngàn năm thầm thỉ nỗi oán hờn cung nữ. Khúc này thì nhớ có một lần Vĩnh Thụy thả mình xuống đó, họa thành bức chân dung viết nắn nót phía dưới Nam Phương. Bức đó lâu ngày cất kỹ ở đâu không còn nhớ, nhưng nguyên vẹn trong ký ức của mình. Mà chắc chi người họa thuở ấy giờ còn nhớ làm chi.
Rồi xốc kéo nhau đi. Hào sản bằng tất cả niềm hân hoan của tuổi trẻ. Vác cây guitar trên vai, đôi ba kẻ nghêu ngao Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi... mà không hề biết rằng những cuộc đi thuở ấy là duy nhất. Những cuộc đi sau này là chạy, nhảy, vượt như một hành trình đày đọa chân thân. Hôm ấy, đi, qua cầu sông Hương, ngó xuống mặt sông mà hỏi Hương ơi mày buồn chi mà để xứ này nhân loại thành màu tím? Hỏi thế thôi. Rồi đi. Nước sông Hương uống mềm môi, mà tiếng yêu thì lần khân chưa một lần thưa thốt.
Qua con đường lụa là Áo Trắng. Xưa đó. Mỗi chiều tan học, Tôi cùng rủ Sầu Thái thị đi trên con đường này. Hai chiếc xe đạp thong dong, mình nhớ, Sầu Thái thị mùa hè mặc áo tím nhạt, mùa đông khoác áo màu dạ lan. Cứ đi mà không nói năng chi, không hề nói năng chi... thi thoảng chỉ hát lên vài đôi câu khe khẽ. Nhưng giờ thì đang nói về đêm đó. Đêm mà cả bọn làm ma giang hồ kéo nhau qua đó. Từng tốp lặng lẽ, thầm thỉ đi trong đêm. Vẫn thi thoảng ai đó hát lên đôi ba câu. Có chàng nhạc sĩ cổ cò gân lên từng chặp. Có lũ lít nhít phụ họa... Người đã xa rồi mười hai mươi năm.... Hoa cúc mùa thu vườn ai còn vàng... Ngẫm chuyện tình kia có là bao lăm... Mà trọn một đời cơ hồ lang thang... Chỉ chừng nớ thôi, có là bao lăm, mà kéo nhau đi nghìn trùng lớp lớp...
Điểm cuối là Ga Huế. Một kiến trúc diễm lệ trữ trình dành riêng cho những cuộc chia ly. Đẹp như một nơi nào của châu Âu rớt lại. Những ngọn đèn dầu bập bùng. Đèn vàng đèn trắng hắt ra. Rồi ngồi xuống, lại tiếng guitar bập bùng. Lại những đôi mắt nói nhiều hơn lời. Cứ thế mà ngồi. Và vài giọt rượu làm bộ thành tri kỉ giữ gìn ký ức cho nhau. Để dù dòng đời mải miết trôi xuôi, Huế vẫn còn những địa danh như vậy, mỗi khi trở gió tâm hồn lại tự mình dắt nỗi nhớ qua cầu làm thành một hành tinh bé nhỏ thênh thang.
Đ.H
(SHSDB36/03-2020)
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).