Những đặc điểm về dẫn ngữ trong thơ trên điện Thái Hòa (3)

15:30 04/11/2008
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG(tiếp theo và hết)


3. Dẫn ngữ thơ văn, sách vở:
Ngôn ngữ thơ trên điện Thái Hòa còn được sử dụng phương thức ẩn dụ qua việc mượn những câu thơ, ý thơ, các câu trong kinh sách để diễn đạt nội dung. Nội dung trong quá trình tiếp nhận sẽ được lĩnh hội thông qua việc liên tưởng đến những “tiền giả định” là những câu thơ, đoạn văn đã biết. Chẳng hạn như:
+ Yêu đào hồng chước chước (
夭佻紅灼灼): cây đào mơn mởn hồng rực rỡ (Bài A.2.5.N). Trong Kinh Thi có bài Đào Yêu ( ) như sau: Đào chi yêu yêu/ Chước chước kỳ hoa/ Chi tử vu quy/ Nghi kỳ thất gia  (桃之夭夭/ 灼灼其花/ 之子于歸/ 宜其室家): nhánh đào mơn mởn/ rực rỡ muôn hoa/ theo chàng về nhà/ yên bề gia thất. Dẫn hai chữ này, ý thơ muốn chỉ về sự tốt đẹp trong cuộc sống, sự hòa hợp âm dương trong vạn vật.
+  Đông ly hiểu lộ lung (
東離曉露籠): bờ rào phía đông sương sớm phủ dày  (Bài A.1.13.CD). Hai chữ Đông ly xuất phát từ câu thơ của Đào Tiềm: Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến sơn (採菊東籬下/ 攸然見南山): hái hoa cúc tại hàng rào đông, bỗng nhiên vụt thấy núi . Ở đây ý của câu thơ trong ngữ cảnh là ca ngợi, tự hào về non sông, gấm vóc, cái đẹp vụt lên trong ngỡ ngàng.

+ Lưỡng tương nhân trí nhạo (
兩將仁):  Hai bậc nhân và trí cùng lấy đó làm thích (Bài B1.30.LB2t). Ba chữ nhân trí nhạo xuất phát từ một câu trong thiên Ung Dã của sách Luận Ngữ: Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn (智者樂 / 仁者樂山): người trí dũng ưa thích nước, người nhân nghĩa ưa thích núi. Chu Hy chú câu này là: “Người trí đạt sự lý thông suốt mọi lẽ không bị đình trệ, giống thể của nước, cho nên ưa thích nước. Người nhân ổn định nghĩa lý, trước sau không thay đổi, giống đức của núi, cho nên ưa thích núi”. Sau này, vua Thiệu Trị cũng từng có câu thơ trong bài Tịnh hồ hạ hứng (mùa hè, cảm hứng ở hồ Tịnh Tâm): Y nhiên nhân trí tình vô hạn (依然仁智情無限): quang cảnh ở đây hợp với tình cảm của người nhân và người trí(2). Dẫn ngữ này trong ngữ cảnh bài thơ để bày tỏ lòng tự hào về núi sông tươi đẹp, con người sống chan hòa với thiên nhiên, cây cỏ, đất nước thanh bình.

+ Cửu hữu ngưỡng nghi hình (
九有仰儀型): “chín điều có” ngẩng lên làm khuôn mẫu (Bài A.1.37.LB). Cửu hữu ở đây đây chính là Cửu tư (九思): chín điều phải lo nghĩ. Hai chữ này mượn từ một câu trong sách Luận ngữ: Quân tử hữu cửu tư (君子有九思): người quân tử phải có chín điều lo nghĩ, ý thơ chỉ về việc “tu thân, trị quốc” của nhà vua, phải luôn lo lắng tu dưỡng bản thân, trăn trở đối với vận nước và vận mệnh nhân dân.
+
Minh đức nhật duy tân (明德日維新): đức sáng ngày càng duy trì cái mới  (Bài B1.18.LB3t). Các tổ hợp Minh đức, duy tân ở đây mượn từ sách Đại học: Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại thân dân, tại ư chí thiện (Cái đạo của Đại học ở chỗ làm sáng cái đức sáng, ở chỗ thân thiện với dân, ở chỗ đạt đến cái thiện). Ý thơ ở đây là chỉ về sự tu dưỡng, rèn luyện của nhà vua, ngày không ngừng đổi mới để hoàn thiện bản thân nhằm đạt đến “cái đức”, “cái đạo”, “cái thiện”, nói chung là những điều tốt đẹp trong hành xử với con người, trong điều hành xã hội.

Những kiểu dẫn ngữ thơ văn tương tự ở thơ trên điện Thái Hòa là phổ biến. Trong chừng mực giới hạn, chúng tôi chỉ trình bày vấn đề này qua một vài dẫn chứng có tính tượng trưng mà thôi.
Trong các ẩn dụ hình thành bằng việc dẫn ngữ, hình thức của dẫn ngữ là hết sức phong phú, chúng được sử dụng đan xen, trộn lẫn, có nhiều bài chứa đến bốn, năm dẫn ngữ điển tích, thành ngữ, thơ văn đã tạo nên một mã ngôn ngữ phức tạp, đòi hỏi đối tượng tiếp nhận phải huy động tất cả khả năng hiểu biết để lĩnh hội.
Một số dẫn ngữ dùng nhiều lần đôi lúc đã trở thành phô trương, khuôn sáo, nhất là các dẫn ngữ về điển tích. Điều đáng nói là, chủ thể sáng tạo đã linh hoạt “đắp” cho điển tích những sắc thái nghĩa mới bằng cách thêm vào điển một nét nghĩa có tính chất “làm rõ nghĩa, xác định cụ thể” của điển, tránh sự lặp lại nhiều lần một cách nhàm chán.

Nhận thức đúng đắn về những quy luật của các phương thức tu từ ngữ nghĩa trong ngôn ngữ thơ trên điện Thái Hòa, nhất là cách thức vận dụng dẫn ngữ với những đặc điểm khá riêng biệt, sẽ lĩnh hội được nội dung một cách đúng đắn nhất, đồng thời nó sẽ tạo nên một kinh nghiệm trong việc lĩnh hội nội dung của hệ thống thơ trên di tích Huế cũng như trong thơ của các vua Nguyễn(3).
                     N.P.H.T.

(nguồn: TCSH số 216 - 02 - 2007)

 

………………….
(1)
Cách đánh số các bài thơ do chúng tôi tự đặt. Trong đó, ở ngoại thất, phần điện trước được quy ước trình bày có ký hiệu viết tắt là A.1; phần  điện sau được quy ước trình bày là A.2. Theo đó, tất cả các bài thơ đều được đánh số chạy từ 1 đến 41 cho phần tiền điện và từ 1 đến 32 cho phần hậu điện. Thơ được trang trí tại các vị trí bờ nóc mái (ký hiệu là N), cổ diêm mái trước (ký hiệu là CD), cổ diêm mái trái (ký hiệu là CDT), cổ diêm mái phải (ký hiệu là CDP). Tương tự, đối với nội thất điện, chúng tôi cũng chia sự phân bố thơ làm hai khu vực chính: điện trước và điện sau. Trong đó, phần điện trước được quy ước trình bày là B.1; phần điện sau được quy ước trình bày là B.2. Tất cả các bài thơ cũng đều được đánh số chạy từ 1 đến 90 cho phần tiền điện và 1 đến 28 cho phần hậu điện. Thơ được trang trí tại các vị trí liên ba hàng cột 3 dãy trên (ký hiệu là LB3t) và dưới (ký hiệu là LB3d); liên ba hàng cột 2 dãy trên (ký hiệu là LB2t) và dãy dưới (ký hiệu là LB2d); liên ba hàng cột 1 (ký hiệu là LB1); liên ba hàng cột 8 (LB8); liên ba hàng cột 7 mặt trước (ký hiệu là LB7t); liên ba hàng cột 7 mặt sau (ký hiệu là LB7s); liên ba vách hậu điện (ký hiệu là LBV).
(2)
Phan Thuận An, Phan Thanh Hải, Phạm Đức Thành Dũng, Nguyễn Phước Hải Trung, Thần Kinh nhị thập cảnh - thơ vua Thiệu Trị, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 86. 
(3)
Xem thêm: Nguyễn Phước Hải Trung, Đặc điểm ngôn ngữ thơ trên điện Thái Hòa, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường ĐHKH Huế, 2006.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN VĂN DŨNG

    Huế trong thời kỳ Pháp thuộc đã được quy hoạch, xây dựng một cách bài bản và khoa học. Đặc biệt, nhiều công trình kiến trúc Pháp được xây dựng với sự đa dạng, phong phú về phong cách kiến trúc tạo nên một quỹ di sản kiến trúc có giá trị ở Huế.

  • TS. KTS. NGUYỄN NGỌC TÙNG - ThS. KTS. NGUYỄN THỊ MINH XUÂN - TS. KTS. LÊ NGỌC VÂN ANH

    Khi nhắc đến Huế, hầu hết chúng ta thường nghĩ đến mảnh đất Thần kinh với sự hiện hữu của kiến trúc Kinh thành, Lăng tẩm và cung điện của triều đại nhà Nguyễn cùng với kiến trúc nhà vườn Huế, cảnh quan danh thắng dọc bờ sông Hương.

  • PHAN THUẬN AN

    Cũng như tại hầu hết các thành phố khác ở ba nước Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française), tại Kinh đô Huế, chính quyền thực dân ngày xưa đã thiết lập một khu phố mới theo lối kiến trúc châu Âu, thường được gọi là “Khu phố Tây” (Quartier Européen). Đây là một loại hình di sản kiến trúc ở Cố đô Huế ngày nay(1).

  • NGUYỄN XUÂN ĐỊNH

    Nói đến kiến trúc Huế, dù chỉ một vài đặc điểm (sơ qua), không thể không đề cập đến những người ở Huế. Cho dù những người đó sinh ra ở Huế, hoặc ở xa đến, nhưng đều góp phần xây dựng nên một Huế có hơn ba trăm năm lịch sử.

  • Ngày 1/6, tin từ Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cho biết di tích Phu Văn Lâu đã được sửa chữa về nguyên trạng ban đầu, và còn được tăng cường, gia cố tất cả vị trí xung yếu cho công trình.

  • Mức độ độc đáo của mô hình Kinh thành Huế, chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền... chắc chắn sẽ khiến bạn ngỡ ngàng.

  • Ứng Lăng - lăng Khải Định với những nét pha kiến trúc Tây Phương đã đem lại vẻ mới, lạ, độc đáo, được đánh giá có phần phô trương so với các công trình kiến trúc truyền thống của Việt Nam. 

  • Tại Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại nội Huế), sau một thời gian nghiên cứu phục dựng, mô hình nghiên cứu Điện Cần Chánh tỷ lệ 1:10 đã hoàn thiện và vừa đưa ra trưng bày.

  • Đàn Nam Giao triều Nguyễn là đàn tế duy nhất còn hiện hữu ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế.

  • Sau khi xây Văn Miếu tại kinh đô Huế vào năm Gia Long thứ 9 (1808), các tỉnh trong khắp đất nước lần lượt xây dựng Văn Miếu tại địa phương. 

  • Cổng tam quan được xem là bộ mặt của một ngôi chùa, bởi tam quan là cổng chính của tự viện. Chư Tăng, tín đồ và du khách ra vào tự viện đều phải qua cổng tam quan này. Do vậy cổng tam quan có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến đời sống tâm linh của các hành giả trong chùa và khách thập phương tín thí đến chùa lễ Phật.

  • QUÁCH TẤN

    Trên tờ Tạp chí Sông Hương (Phụ trương Đặc biệt 2) ra tháng 12-1985 có đăng bài của ông Phan Thuận An nói về Cầu Trường Tiền.

  • PHAN THUẬN ANTrong quá trình hình thành và phát triển đô thị Huế gần 700 năm nay, đô thị này đã trải qua nhiều đợt qui hoạch. Trong đó, đợt qui hoạch vào đầu thế kỷ XIX khi triều Nguyễn xây dựng Kinh đô là đợt qui hoạch qui mô và có giá trị bền vững nhất.

  • NGUYỄN VĂN HOAVì có thú chơi sách và đi du lịch nên tôi có thú vui sưu tầm sách. Nhờ vậy mà trong tủ sách cá nhân của tôi đã có trên 100 đầu sách về Huế, nhất là của tác giả sinh sống ở Huế, ví dụ cuốn Thần kinh Nhị thập cảnh, thơ vua Thiệu Trị,  do Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung biên soạn, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Nhà xuất bản Thuận Hoá xuất bản, Huế, 1997. Rất may mắn tháng 5 năm 2003, tôi lại có trong tay cuốn Kinh thành Huế của Phan Thuận An (từ dưới xin viết tắt PTA).

  • TRẦN TUẤN ANHNằm cách trung tâm thành phố Huế 5km về phía Bắc, toạ lạc bên bờ sông Hương ở vị trí Bao Vinh, một thương cảng nổi tiếng của Huế ngày xưa, những ngôi nhà cổ Tứ Giác(1) tại đây được xem như một trong những kiến trúc thuộc địa Pháp khá nổi bật ở Huế. Sự nổi bật thể hiện qua các đặc trưng kiến trúc mang đậm nét Huế, hoà quyện với phong cách kiến trúc Pháp du nhập vào Huế những năm đầu thế kỷ 20.

  • THÁI DOÃN LONGKiến trúc luôn luôn được hình thành phát triển và gắn bó với sự tiến hoá của văn hoá xã hội và lịch sử, bản thân từng công trình và tổng thể toàn đô thị đều ghi dấu thời đại và xã hội nào sinh ra nó.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGHuế là một đô thị hình thành không từ xuất phát điểm hay bối cảnh của một trung tâm có quá trình hội tụ thương nghiệp, trao đổi hàng hoá hay giao dịch thương mãi, mà góp một nét rất riêng trong chân dung đô thị Việt Nam từ nhu cầu xây dựng khu trung tâm chính trị, hành chính quốc gia trong giai đoạn lịch sử đầy biến động và phức tạp.

  • PHAN THUẬN ANQuá trình hình thành và phát triển của đô thị Huế thường được chia ra làm 3 thời kỳ với 3 hình thái và phong cách kiến trúc khác nhau: phố cổ, phố cũ và phố mới. Từ "phố cũ" dùng để chỉ khu phố Tây được xây dựng dưới thời Pháp thuộc (1875-1954) ở bờ nam sông Hương. Cung An Định ra đời vào thời kỳ lịch sử ấy.