Khám phá kiến trúc “độc” của đàn tế cổ ở Huế

08:14 27/03/2014

Đàn Nam Giao triều Nguyễn là đàn tế duy nhất còn hiện hữu ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế.

Trong quần thể di tích Cố đô Huế có tất cả 5 đàn tế bao gồm: Đàn Nam Giao, Đàn Sơn Xuyên, Đàn Xã Tắc, Đàn Tiên Nông, Đàn Tịch Điền. Kiến trúc các đàn tế này khá độc đáo còn được ghi chép trong một số tài liệu cũ.

Kiến trúc theo thuyết Tam tài của Đàn Nam Giao

Đàn Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế. Đây là đàn tế duy nhất còn hiện hữu (dù không còn nguyên vẹn) ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất còn tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế.

Đàn Nam Giao đã được nhà Nguyễn khởi công xây dựng vào ngày 25/3/1806. Sau khi hoàn thành, vua Gia Long lần đầu tiên tổ chức lễ tế Giao tại đây vào ngày 27/3/1807.

Đàn Nam Giao triều Nguyễn là một tổ hợp các công trình kiến trúc gồm Giao đàn, Trai cung, Thần trù và Thần khố trong khuôn viên hình chữ nhật có diện tích đến 10ha. Trung tâm của khuôn viên đàn Nam Giao là Giao đàn, hướng về phía Nam, gồm 3 tầng:

Tầng trên cùng là Viên đàn, xây hình tròn, tượng trưng cho Trời. Đàn có đường kính 40,5m, cao 2,8m; xung quanh xây lan can cao hơn 0,8m, dày 0,3m, quét sơn màu xanh. Mặt đàn lát gạch và đặt sẵn 28 viên đá tảng chân cột để mỗi khi tế sẽ dùng một tòa nhà che bằng vải màu xanh (được gọi là Thanh ốc) lên trên. Từ năm 1846 trở đi tòa nhà này được gọi là Hoàng khung vũ. Bốn mặt Viên đàn có thềm, thềm phía nam 15 bậc, ba mặt còn lại đều 9 bậc. Đây là nơi diễn ra các hoạt động lễ nghi chính trong lễ tế Nam Giao.

Tầng giữa là Phương đàn hay còn gọi là Tùng đàn, xây hình vuông, tượng trưng cho Đất. Đàn có cạnh dài 83m, cao 1,1m; xung quanh xây lan can, cao 0.9m, dày 0,3m, quét sơn màu vàng. Khi tế Giao, người ta dựng một tòa nhà che vải vàng (gọi là Hoàng ốc). Bốn mặt Phương đàn có thềm, đều 5 bậc.

Đàn này, dưới thời Nguyễn, là nơi tế thần Mặt Trời, Mặt Trăng, Tinh Tú, Mây, Mưa, Gió, Sấm, Năm và Tháng, Núi, Biển, Sông, Đầm Phá, các vị thần núi ở các sơn lăng các vua nhà Nguyễn, thần giữ lăng tẩm và phần mộ cùng tất cả các vị thần trong toàn quốc.

Tầng dưới cùng xây hình vuông, tượng trưng cho Người. Đàn có cạnh dài 165m, cao 0,84m; xung quanh xây lan can cao 0,93m, dày 0,3m và quét sơn màu đỏ. Mặt trước đàn có xây hai hàng đá tảng, mỗi hàng 6 tảng để cắm tàn. Góc Đông Nam đàn có xây một cái bệ gọi là lò "phần sài", là nơi đốt con sinh để tế. Ở góc Tây Bắc đào một cái lỗ để chôn lông và huyết của con sinh, gọi là huyệt "ế mao huyết". Bốn mặt đàn này có thềm, đều 4 bậc.

Có thể thấy kiến trúc đàn Nam Giao triều Nguyễn tuân thủ chặt chẽ theo thuyết Tam tài cũng như quan niệm "Trời tròn Đất vuông". Đàn Nam Giao gồm ba tầng xây chồng lên nhau với các dạng thức và màu sắc khác biệt. Trời tròn biểu hiện bằng Viên đàn với lan can quét vôi màu xanh ("thiên thanh": trời xanh). Đất vuông biểu hiện bằng Phương đàn với lan can quét vôi màu vàng ("địa hoàng": đất vàng). Tầng dưới cùng cũng hình vuông, lan can quét vôi màu đỏ biểu hiện cho Người ("xích tử": con đỏ).

Trời-Đất-Người (tức "Tam tài": Thiên-Địa-Nhân) được thể hiện trong mối quan hệ vừa có tính tách biệt tương đối, vừa thống nhất tuyệt đối. Đặc biệt, yếu tố Con Người được thể hiện rất rõ ràng và khá bình đẳng với tất cả Trời Đất và các vị thần linh. Nhà nghiên cứu Phan Thanh Hải cho rằng "đây chính là đỉnh cao tư tưởng thái hòa của Việt Nam dưới thời Nguyễn".

Nét huy hoàng xưa của đàn Xã Tắc

Đàn Xã Tắc ở Huế được xây dựng thời Gia Long nằm tại phường Thuận Hòa, thành nội Huế. Năm 1806, nhà Vua đã hạ lệnh cho tất cả các dinh trấn trong cả nước gửi đất tinh sạch về để dựng đàn, tượng trưng cho đất đai của cả đất nước. Diện mạo của Đàn Xã Tắc, nằm lộ thiên quay mặt về hướng Bắc. Quy mô đàn tế tương đối lớn, gồm hai tầng:

Tầng trên cao 1,6m, hình vuông mỗi cạnh dài 30m, được làm bằng gạch vồ dày 0,8m đất của đàn được thu từ mọi miền trong cả nước, gồm 12 lớp đất đá sỏi… mỗi lớp dày khoảng 15cm, quanh tầng có hệ thống lan can, trỗ 4 cửa thông ra 4 hướng với các bậc thang lên xuống tầng dưới.

Tầng dưới cao 1,23m, mỗi cạnh dài 74m, nền tầng nay được đầm từ 6 loại đất khác nhau theo chiều ngang, tầng này cũng có lan can cao khoảng 90cm và 4 tầng tam cấp ở 4 hướng như tầng trên.
Xung quanh đàn còn có bia “Thái Xã Chi Thần” và một hồ nước rộng là minh đường, có tường thấp và trổ 3 cửa ra 3 hướng Đông-Tây-Bắc.
Sau khi Vua Bảo Đại thoái vị vào năm 1945 cũng như bao công trình khác của triều đại, đàn Xã Tắc mất đi chức năng của mình, đàn bị sử dụng sai mục đích vốn có, bị người dân trưng dụng làm nhà ở. Sau năm 1975 thì đàn hoàn toàn biến mất và chỉ còn lại tấm bia “Thái Xã Chi Thần”.
Hiện nay, đàn đã được phục dựng trở lại và hàng năm đã tổ chức lễ tế Xã Tắc với quy mô lớn.

Những đàn tế chỉ còn trong thư tịch cổ

Đàn Sơn Xuyên được xây dựng dưới thời nhà Nguyễn, là nơi cúng tế toàn bộ thần núi, thần sông của đất Thừa Thiên xưa. Đàn được xây dựng vào năm 1852, thời vua Tự Đức. Việc xây dựng đàn được triều Nguyễn giao Bộ Công trực tiếp phụ trách. Di tích này được dựng theo khuôn mẫu của đàn Xã Tắc.
Theo Quốc Sử Quán, kiến trúc của Đàn Sơn Xuyên rất giống với đàn Nam Giao và đàn Xã Tắc vì đàn Sơn Xuyên hiện nay vẫn còn giữ những cấu trúc cơ bản, nhất là tầng trên. Cả hai tầng của đàn Sơn Xuyên vốn đều được xây bó quanh bằng gạch vồ và đá núi, giữa đổ đất nện chặt. Tầng trên cao hơn 1m, mỗi cạnh rộng khoảng 22m; tầng dưới cao gần 0,5m, mỗi cạnh dài khoảng 45m. Kích thước tuy nhỏ hơn nhưng về tỉ lệ giữa các tầng đàn thì khá giống đàn Xã Tắc. Đàn Sơn Xuyên được xem là khuôn mẫu tốt để nghiên cứu phục hồi đàn Xã Tắc.

Đàn Sơn Xuyên hiện nay nằm trong khuôn viên Trường tiểu học Phường Đúc (245 Bùi Thị Xuân, thành phố Huế). Đàn hiện nay đang bị hủy hoại, nó chỉ còn lại một phần nhờ vào sự bảo vệ tự phát của thầy cô trường tiểu học Phường Đúc.

Ngoài ra, hai đàn tế Tiên Nông và Tịch Điền ở kinh thành Huế chỉ còn lại hình ảnh trong thư tịch cổ. Hai đàn tế cổ này hiện nay đã biến mất và chìm sâu vào lòng đất. Khả năng phục dựng lại các đàn tế cổ này là không thể, nó chỉ còn là hình ảnh dùng để làm tư liệu, vị trí chính xác của đàn hiện nay các nhà khảo cổ vẫn chưa tìm ra.

 


Theo Kienthuc.net

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN VĂN DŨNG

    Huế trong thời kỳ Pháp thuộc đã được quy hoạch, xây dựng một cách bài bản và khoa học. Đặc biệt, nhiều công trình kiến trúc Pháp được xây dựng với sự đa dạng, phong phú về phong cách kiến trúc tạo nên một quỹ di sản kiến trúc có giá trị ở Huế.

  • TS. KTS. NGUYỄN NGỌC TÙNG - ThS. KTS. NGUYỄN THỊ MINH XUÂN - TS. KTS. LÊ NGỌC VÂN ANH

    Khi nhắc đến Huế, hầu hết chúng ta thường nghĩ đến mảnh đất Thần kinh với sự hiện hữu của kiến trúc Kinh thành, Lăng tẩm và cung điện của triều đại nhà Nguyễn cùng với kiến trúc nhà vườn Huế, cảnh quan danh thắng dọc bờ sông Hương.

  • PHAN THUẬN AN

    Cũng như tại hầu hết các thành phố khác ở ba nước Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française), tại Kinh đô Huế, chính quyền thực dân ngày xưa đã thiết lập một khu phố mới theo lối kiến trúc châu Âu, thường được gọi là “Khu phố Tây” (Quartier Européen). Đây là một loại hình di sản kiến trúc ở Cố đô Huế ngày nay(1).

  • NGUYỄN XUÂN ĐỊNH

    Nói đến kiến trúc Huế, dù chỉ một vài đặc điểm (sơ qua), không thể không đề cập đến những người ở Huế. Cho dù những người đó sinh ra ở Huế, hoặc ở xa đến, nhưng đều góp phần xây dựng nên một Huế có hơn ba trăm năm lịch sử.

  • Ngày 1/6, tin từ Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cho biết di tích Phu Văn Lâu đã được sửa chữa về nguyên trạng ban đầu, và còn được tăng cường, gia cố tất cả vị trí xung yếu cho công trình.

  • Mức độ độc đáo của mô hình Kinh thành Huế, chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền... chắc chắn sẽ khiến bạn ngỡ ngàng.

  • Ứng Lăng - lăng Khải Định với những nét pha kiến trúc Tây Phương đã đem lại vẻ mới, lạ, độc đáo, được đánh giá có phần phô trương so với các công trình kiến trúc truyền thống của Việt Nam. 

  • Tại Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại nội Huế), sau một thời gian nghiên cứu phục dựng, mô hình nghiên cứu Điện Cần Chánh tỷ lệ 1:10 đã hoàn thiện và vừa đưa ra trưng bày.

  • Sau khi xây Văn Miếu tại kinh đô Huế vào năm Gia Long thứ 9 (1808), các tỉnh trong khắp đất nước lần lượt xây dựng Văn Miếu tại địa phương. 

  • Cổng tam quan được xem là bộ mặt của một ngôi chùa, bởi tam quan là cổng chính của tự viện. Chư Tăng, tín đồ và du khách ra vào tự viện đều phải qua cổng tam quan này. Do vậy cổng tam quan có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến đời sống tâm linh của các hành giả trong chùa và khách thập phương tín thí đến chùa lễ Phật.

  • QUÁCH TẤN

    Trên tờ Tạp chí Sông Hương (Phụ trương Đặc biệt 2) ra tháng 12-1985 có đăng bài của ông Phan Thuận An nói về Cầu Trường Tiền.

  • PHAN THUẬN ANTrong quá trình hình thành và phát triển đô thị Huế gần 700 năm nay, đô thị này đã trải qua nhiều đợt qui hoạch. Trong đó, đợt qui hoạch vào đầu thế kỷ XIX khi triều Nguyễn xây dựng Kinh đô là đợt qui hoạch qui mô và có giá trị bền vững nhất.

  • NGUYỄN VĂN HOAVì có thú chơi sách và đi du lịch nên tôi có thú vui sưu tầm sách. Nhờ vậy mà trong tủ sách cá nhân của tôi đã có trên 100 đầu sách về Huế, nhất là của tác giả sinh sống ở Huế, ví dụ cuốn Thần kinh Nhị thập cảnh, thơ vua Thiệu Trị,  do Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung biên soạn, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Nhà xuất bản Thuận Hoá xuất bản, Huế, 1997. Rất may mắn tháng 5 năm 2003, tôi lại có trong tay cuốn Kinh thành Huế của Phan Thuận An (từ dưới xin viết tắt PTA).

  • TRẦN TUẤN ANHNằm cách trung tâm thành phố Huế 5km về phía Bắc, toạ lạc bên bờ sông Hương ở vị trí Bao Vinh, một thương cảng nổi tiếng của Huế ngày xưa, những ngôi nhà cổ Tứ Giác(1) tại đây được xem như một trong những kiến trúc thuộc địa Pháp khá nổi bật ở Huế. Sự nổi bật thể hiện qua các đặc trưng kiến trúc mang đậm nét Huế, hoà quyện với phong cách kiến trúc Pháp du nhập vào Huế những năm đầu thế kỷ 20.

  • THÁI DOÃN LONGKiến trúc luôn luôn được hình thành phát triển và gắn bó với sự tiến hoá của văn hoá xã hội và lịch sử, bản thân từng công trình và tổng thể toàn đô thị đều ghi dấu thời đại và xã hội nào sinh ra nó.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGHuế là một đô thị hình thành không từ xuất phát điểm hay bối cảnh của một trung tâm có quá trình hội tụ thương nghiệp, trao đổi hàng hoá hay giao dịch thương mãi, mà góp một nét rất riêng trong chân dung đô thị Việt Nam từ nhu cầu xây dựng khu trung tâm chính trị, hành chính quốc gia trong giai đoạn lịch sử đầy biến động và phức tạp.

  • PHAN THUẬN ANQuá trình hình thành và phát triển của đô thị Huế thường được chia ra làm 3 thời kỳ với 3 hình thái và phong cách kiến trúc khác nhau: phố cổ, phố cũ và phố mới. Từ "phố cũ" dùng để chỉ khu phố Tây được xây dựng dưới thời Pháp thuộc (1875-1954) ở bờ nam sông Hương. Cung An Định ra đời vào thời kỳ lịch sử ấy.

  • MAI VĂN LỘC (*)Huế được biết đến ngoài sự nổi tiếng của các di sản kiến trúc cung điện, lăng tẩm của triều Nguyễn còn do cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp đã gắn bó hài hoà với sự hình thành đô thị cổ, đồng thời cấu trúc quy hoạch đô thị chặt chẽ tạo nên một sự quyến rũ của thành phố, nơi mà môi trường thiên nhiên và các công trình xây dựng nhân tạo được hoà quyện tạo nên một “bài thơ tuyệt tác về đô thị”.