Nhà thơ không bao giờ lớn tiếng

16:42 02/12/2008
ĐÀO ĐỨC TUẤNNhà thơ Lê Văn Ngăn sinh năm 1944 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế; hiện sống tại TP Quy Nhơn, Bình Định. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội VHNT Bình Định. Thơ in trong nhiều tuyển tập trong và ngoài nước nhưng chỉ có một tập riêng “Viết dưới bóng quê nhà” (NXB Hội Nhà văn - 2008).


Tôi đồ rằng khúc thơ Từ đó tôi dành niềm tin / Cho các nhà thơ không bao giờ lớn tiếng là một tuyên ngôn của thi sĩ nổi tiếng Lê Văn Ngăn. Bởi cả trong chuyện “khai báo” trích ngang cuộc đời - tác phẩm trong các tuyển tập, ông cũng chỉ ngắn gọn “có những người bạn thân ở nhiều nơi trong nước”, càng làm cho người yêu thơ ông thêm “sương khói” với một đời thi sĩ nhiều giai thoại. Một nhà thơ “công thần” từ phong trào học sinh - sinh viên yêu nước trước 1975 tại Đà Lạt, bút lực luôn dồi dào nhưng có lẽ chỉ in “công khai” duy nhất tập thơ riêng ở tuổi 65. Sao thế nhỉ?
Quy Nhơn ngày tháng nào không rõ của năm 2006, một người bạn nói: tí nữa Lê Văn Ngăn tới. Tôi khấp khởi hồi hộp trước một tên tuổi đã biết “nhàu nát” qua sách báo và thơ ông đã góp “gia tài” chúng tôi một thời sinh viên khốn khó. Lê Văn Ngăn là một tiếng thơ vang dội, lắng đọng trong phong trào học sinh - sinh viên yêu nước trong các đô thị miền Nam trước 1975 và từ bấy đến giờ vẫn “tả xung hữu đột” tinh khôi trên văn đàn…

Rẽ chiếc xe đạp cà tàng vào quán nước trước bến xe Bình Định là người đàn ông với nước da nâu, gầy rắn rỏi, nét mặt nửa như hớn hở nửa như trầm tư. Nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng (Chủ tịch Hội VHNT Bình Định) nói: "Thi sĩ Lê Dzăn Ngăn đó!”. Hồn hậu một cách dễ chịu, nhà thơ Lê Văn Ngăn nhẹ nhàng cười chào, ngồi xuống và nâng ly, xoá khoảng cách tuổi tác ngay từ đầu. Thi sĩ có giọng thơ cực kỳ hiện đại lại mộc mạc như một lão nông vừa dưới quê lên…
Tôi vẫn còn nhớ như in cái cảm giác tươi mới trong những ngày sinh viên Đà Lạt khi đọc thơ Lê Văn Ngăn. Ấy là những bài thơ ông “gởi cho đông vui” (như sau này ông tâm sự) dự thi thơ Tuần báo Văn Nghệ 1990-1991 và sau đó đoạt giải nhì. Đây là một trong những giải thưởng hiếm hoi của ông “bị lộ diện”, bởi ông không thuộc tạng thích đem tác phẩm đi thi thố, kể cả in tập; trong lúc, thơ ông thuộc loại nổi tiếng nhiều bạn đọc, nhiều người hối thúc sẵn sàng bỏ tiền in; mãi đến bước sang tuổi 65, ông mới chịu cho in tập “Viết dưới bóng quê nhà” với 46 bài trong hàng ngàn thi phẩm của mình.

“Già” Ngăn tặc lưỡi: “Thơ của thi sĩ thuộc về người đọc, thơ hay thơ dở chỉ cần “lộ” ra một tí là thiên hạ biết ngay! Chỉ cần in báo, in mấy tuyển chung với anh em… kiếm tí nhuận bút cà phê là đủ rồi…”. Dẫu đã có ngàn vần thơ riết róng đến quyết liệt nhưng bản tính lặng lẽ vẫn là dấu ấn lớn nhất của đời ông, khiêm nhường cả trong lúc… say! Giọng Huế rặt ri dẫu gần trọn cuộc đời sống xa quê. Những dòng thơ xuôi theo tâm tưởng, không một chút vần vè nhưng đầy âm nhạc. Cách đây gần hai mươi năm, tôi thuộc làu bài “Quà tặng” dẫu không phải là tác phẩm vô giải năm đó: Anh gởi tặng em tiếng chuông đồng hồ điểm / để ở hai nơi cách xa nhau, chúng ta cùng thức dậy giữa đêm khuya / thầm hỏi về những tháng năm đã sống / Hạnh phúc thường đến kèm theo những nỗi sợ hãi… Còn một trong hai bài được trao giải Văn Nghệ là “Xa Đà Lạt” vẫn khiến anh day d
t: “Đà Lạt, nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm sâu sắc, giờ nghĩ lại xấu hổ vì những điều mình nói trong thơ cho thấy mình chưa hiểu bao nhiêu về con người của miền đất ấy…”. Thế là ông dứt khoát không đưa vào tập thơ mới in.

Xuề xoà trong cuộc sống nhưng quá khắt khe trong sáng tạo; nặng lòng với người quen thân và những vùng đất đã qua đã làm nên một miền tương tư trong những việc làm, những cuộc hàn huyên của ông. Và rồi ông lao động chữ… Nói như ông Dương Tường, người ta không thể trở thành nhà thơ - hoặc anh là thi sĩ, hoặc anh chẳng bao giờ là thi sĩ. Lê Văn Ngăn thuộc vào trường hợp chẳng bao giờ cố làm nhà thơ, bởi trong máu và cả đời ông là thi sĩ…
Anh em văn nghệ miền Trung vẫn lưu truyền nhiều giai thoại về tính đãng trí của Lê Văn Ngăn. Là người “áp giải” Lê Văn Ngăn nhiều năm liền, nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng nhận… diện: thi sĩ họ Lê là một người hạnh phúc nếu hiểu theo cái nghĩa một nhà thơ mà khi nhắc tên, anh em thường kèm theo đó hàng lô hàng lốc những giai thoại. Anh mây trời gió nước đến nỗi khi đi nhậu khuya về gọi cửa, anh quên mất tên bà xã mà gọi đích danh bà hàng xóm. Anh đi với tôi, gặp nhà thơ X, anh mừng rỡ luống cuống bảo: “Trời ơi, lâu quá, giới thiệu với ông đây là nhà thơ Y” là chuyện hết sức bình thường. Đến nỗi khi gặp nhà thơ A, anh vui vẻ giới thiệu với tôi là A rồi, tôi chơi ngẳng thì thào vào tai anh: “Đó đâu phải anh A”. Lập tức anh bắt tay lại anh A và: “Xin lỗi B nhé, hồi nãy mình quên nên giới thiệu là A”.

Anh nhầm người ta vô hồi kỳ trận. Nhưng hình như có “luật nhân quả”, người thân cũng nhầm anh trở lại. Hôm anh về Huế, một người bạn nha sĩ thương, nhìn cảnh anh “hàng tiền đạo bị thẻ đỏ” tức “lợi một bên mà răng một bên”, tài trợ cho anh bộ răng giả xịn, anh đáp tàu về định khoe với vợ trước tiên sau đó mới đến khoe với anh em cơ quan. Vợ anh ra mở cửa, nhìn miệng mồm anh mới tân trang, tưởng vị khách lạ nào, buột miệng: “Anh Ngăn về Huế chưa vô, có gì hôm khác anh lại!”. Còn chuyện anh mê ngồi quán so tài “xe-pháo-mã”, sợ mất xe đạp nên chạy ra khóa nhầm xe người khác là chuyện… thường. Có câu chuyện đã thành giai thoại mà chính ông hay kể như là cách tự trào về nghiệp văn; ấy là một hôm mẹ ông nghe đài đọc thơ “thằng con”, bà nhẹ nhàng nói: “Không còn chuyện gì đàng hoàng để làm hay sao mà đi làm thơ, con?!”. Đặc biệt, ông còn “sáng chế” ra bài thuốc trị bệnh dạ dày của mình bằng cách… uống bia thì khó mà áp dụng theo!  

Trò chuyện nhiều lần, Lê Văn Ngăn mới chịu “khai”: năm học đệ thất (lớp 6 bây giờ) ông từng có thơ in trên Báo Phụ nữ Thứ bảy - Sài Gòn. 18 tuổi, ông viết bài “Người phu xe”: Cha đã lăn cho con những vòng xe / mồ hôi chảy xuống lấp lánh mặt trời / đọ sức cùng thiên nhiên/ (…) Sao mà những nếp nhăn / sao mà khuôn mặt héo…; bài thơ này làm Thái Ngọc San và nhiều bạn bè khác xúc động khôn xiết! Thời sinh viên (khóa 3,1964-1966) ở trường Sư phạm Quy Nhơn anh đã in ronéo tập thơ có tựa “Trên đồng bằng”. Năm 1972 Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo Văn Nghệ phát đi bài thơ “Sóng vẫn đập vào eo biển”, tờ Thống Nhất đăng tải bài “Đất của những người bất phục” khiến tên tuổi Lê Văn Ngăn được kẻ sĩ Bắc Hà chia sẻ như một đồng chí trên cùng một chiến tuyến. So với nhiều bạn bè tài hoa cùng thế hệ, tên tuổi Lê Văn Ngăn lặng lẽ hơn rất nhiều, nhưng cái lặng lẽ đổi mới để thành một giọng điệu lãng mạn đến tận cùng, hiện thực đến tận đáy, làm sắt se cả thi đàn hiện đại. Ngoại trừ một số bài thơ thuở đôi mươi và ứng khẩu “trà dư tửu hậu”, thơ Lê Văn Ngăn như nhất một giọng văn-xuôi-không-vần-đầy-nhịp-điệu của một bản-năng-thi-sĩ luôn tự biết làm mới mình qua từng con chữ…

Nhà thơ Nguyễn Tường Văn, người sát cánh với Lê Văn Ngăn trong phong trào học sinh - sinh viên yêu nước tại Đà Lạt, nói: "Lê Văn Ngăn thực sự là một “huynh trưởng” trong những ngày đấu tranh cam go ở Đà Lạt. Những bài thơ rực lửa của anh trên các tờ Đối diện, Trình bày… đã góp phần kích thích tinh thần yêu nước, sẵn sàng xả thân vì dân tộc ngay trong lòng đô thị luôn bị bố ráp của Mỹ -Ngụy”. Nguyễn Tường Văn còn cho hay: hồi những năm 1970-1973 ở Đà Lạt, có lúc buộc phải khoác áo lính ngụy “quèn”, Lê thi sĩ luôn mặc kiểu xộc xệch “lộn trên lộn dưới”; ví như lấy cà vạt làm dây nịt… thò ra lòng thòng, trông rất “gai”…  

Trong đời gặp gỡ và cảm nhận các nhà thơ, tôi thấy Lê Văn Ngăn là một người hiếm hoi sống như 100% với những gì mình viết và ngược lại. Nói như nhà thơ Ngô Thế Oanh, “Thơ Lê Văn Ngăn thấm vào ta những cảm xúc bao giờ cũng chân thực, chân thành và với một thứ nhạc điệu, nhịp điệu nội tại, nội tâm một nét rất riêng trong nghệ thuật thơ ca mà không dễ nhà thơ nào cũng có được. Một bản lĩnh thơ rất hiện đại nhưng xa được những lý thuyết ồn ào. Thơ Lê Văn Ngăn chính là con người, cuộc đời anh”.
Thơ Lê Văn Ngăn găm sâu vào lịch sử văn học là bởi ông là “nhà thơ không bao giờ lớn tiếng” chăng?
Đ.Đ.T

(nguồn: TCSH số 237 - 11 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Rất nhiều hoa, rất nhiều nụ cười đã hiện diện một cách cởi mở và đầm ấm trong buổi chiều ngày 18.7.2008 tại Trung tâm Du lịch và Dịch vụ Festival - Huế, nơi diễn ra Lễ kỷ niệm 25 năm Tạp chí Sông Hương phát hành số báo đầu tiên (1983-2008).

  • HỒ THẾ HÀĐến nay, Tạp chí Sông Hương đã tròn một phần tư thế kỷ (1983-2008) kể từ số đầu tiên được ra mắt bạn đọc. Hai mươi lăm năm đủ để vui buồn ôn lại những chặng thác ghềnh và phẳng lặng của một dòng sông từ nguồn ra biển.

  • ĐẶNG VĂN VIỆTKỷ niệm 63 năm Cách mạng Tháng TámSau ngày đảo chính (9-3-1945), Nhật lật đổ Pháp. Phong trào Việt Minh như một luồng gió mạnh, thổi từ miền Bắc vào miền Trung, miền Nam, thức tỉnh lòng yêu nước, thương nòi của người dân đất Việt, thúc giục mọi người sẵn sàng để chớp thời cơ, giành lại chính quyền về tay nhân dân.

  • TRẦN THÙY MAIThuở trước, mỗi đêm cuối năm, anh Hải Bằng bao giờ cũng đến thăm trụ sở Hội Văn nghệ, rồi túc tắc ngự trên chiếc xe babeta màu đỏ, ghé thăm nhà bạn bè thân hữu đó đây trước khi quay về để kịp đón giao thừa.

  • NGUYỄN QUANG HÀCuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cả nước xôn xao về vụ án Trần Dụ Châu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong một cuộc vui gần đây, nhân nhắc đến việc bình chọn các nhân vật, sự kiện nổi bật trong năm trên báo chí, có ý kiến phong cho nhà văn Hồng Nhu là người đạt nhiều cái “nhất” nhất trong làng văn ở Huế.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG - Chúng ta lại thắng rồi. Thỉnh thoảng lão lại reo lên như thế khi bất chợt gặp một người mà lão coi là bạn. Lão nói câu ấy cả khi lão đang thoi thóp trên giường bệnh, miệng méo xệch lão nói một cách khó khăn nhưng vừa nói lão vừa cười khiến cho người ta yên tâm là lão bắt đầu sống trở lại, cái chết còn lâu mới quật được lão.

  • PHẠM QUANG TRUNGAnh Cao Xuân Hạo kính mến!Trước tiên, xin thú nhận, tôi là người mê say tên tuổi anh đã từ lâu. Tuổi trẻ và sau đó là những năm tháng trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu, phê bình văn chương đã đưa tôi đến những trang dịch văn xuôi Nga – Xô viết đầy sức cuốn hút của anh, như Chuyện núi đồi và thảo nguyên, Chiến tranh và hòa bình, Truyện ngắn Gorki, Con đường đau khổ, Tội ác và trừng phạt…

  • VINH HUỲNHLTS: Có bạn đọc gửi thư đến Toà soạn chúng tôi đề nghị nếu chọn topten sự kiện nổi bật trong làng báo chí năm 2001 thì không nên bỏ qua “hội chứng” đánh vào các trường đại học, trong đó có Đại học Nghệ thuật Huế và trường Viết văn Nguyễn Du.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH(Tham luận đọc trong hội thảo)Cho đến đầu thế kỷ 21 này, chúng ta vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về mặt kinh tế đã là điều đáng sợ nhưng cái đáng sợ hơn là nguy cơ vong bản về mặt văn hoá. Xu thế toàn cầu hoá đang xâm nhiễm và xâm thực vào đời sống chúng ta một cách ngọt ngào mà chua cay, dịu êm mà đẫm máu.

  • TRẦN HOÀNLTS: Từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 12 năm 2001 đã diễn ra cuộc tập huấn - hội thảo báo chí văn nghệ địa phương tại thủ đô Hà Nội. Nhạc sĩ Trần Hòan, Phó Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Phó Chủ tịch UBTQ.LH các Hội V.H.N.T Việt Nam đã đọc báo cáo đề dẫn hội nghị. Sông Hương xin trích đăng một phần trong báo cáo đó (đầu đề do chúng tôi đặt).

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀM(TBT: 1983 - 1986)Bây giờ nhìn lại những số Sông Hương đầu tiên (số 1 ra mắt tháng 6-1983) không khỏi cảm thấy tờ tạp chí như một… cô gái quê, giản dị, khiêm nhường, có vẻ… tồi tội. Giấy đen. Bìa mỏng. Bát chữ typo chỗ đậm chỗ nhạt. Sông Hương làm sang cho in ảnh tác giả, khốn nỗi, ảnh loè nhoè, không rõ mặt. Giá bao cấp 7 đồng/số, vẫn bị chê đắt. Được cái lượng bản in ngay số đầu là 4.000 bản. Trông khí sắc cuốn tạp chí vẫn chưa xa cái thời tranh đấu chống Mỹ, in sách báo trong gác trọ sinh viên.

  • TÔ NHUẬN VỸ(TBT: 1986 - 1989)Có năm kỷ vật của Hải Bằng tặng tôi và gia đình, từ ngày anh còn sống cho đến nay, sau 10 năm anh mất, tôi vẫn nhìn ngắm và chăm sóc hàng ngày. Đó là bức tranh hồ sen, là hai câu thơ anh viết trên giấy đặc biệt, là tất cả các tập thơ anh in từ sau 1975, là đôi chim hạc anh tạo bằng rễ cây và con chó Jò bé xíu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(TBT: 1991)Tôi có may mắn được làm Phó Tổng biên tập nhiều năm cho hai “đời” Tổng biên tập nổi tiếng là Nguyễn Khoa Điềm và Tô Nhuận Vỹ, nhưng đến “phiên” mình được gánh vác trọng trách thì chỉ đảm đương được một thời gian ngắn. Đã đành do tài hèn sức mọn, nhưng cũng vì đó là giai đoạn khó khăn sau “Đổi Mới”, chúng ta đang phải tìm đường, nhiều quan niệm - nhất là về văn học nghệ thuật chưa dễ được nhất trí…

  • HỒNG NHU(TBT: 1992 - 1997)Thời gian như bóng câu qua cửa. Mới đó mà đã một phần tư thế kỷ, tờ tạp chí Sông Hương có mặt cùng bạn đọc trong và ngoài nước.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH(TBT: 2000 - 2008)Vậy là đã tròn một phần tư thế kỷ. Ngày ấy, cũng vào mùa “Hạ trắng” nắng lên thắp đầy như nhạc Trịnh, tờ Tạp chí Sông Hương - tạp chí sáng tác lý luận phê bình nghiên cứu văn học nghệ thuật của xứ Huế được ra đời và đi qua cái ngưỡng “vạn sự khởi đầu nan” một cách kỳ diễm, đầy ấn tượng.

  • MAI VĂN HOANSáng 8 - 5 - 2008, ghé quán  26 Lê Lợi (trụ sở Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế) ngồi uống cà phê với hai nhà thơ Kiều Trung Phương và Ngàn Thương, tôi vô cùng sửng sốt khi Ngàn Thương cho biết người suốt đời đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử là anh  Phạm Xuân Tuyển đã mất cách đây gần 7 tháng tại Phan Thiết.

  • I.Con người ấy từng mang tên Nguyễn Sinh Cung, và tên chữ Nguyễn Tất Thành, trước khi đến với tên Nguyễn Ái Quốc, đã trải một tuổi thơ vất vả vào những năm kết thúc thế kỉ XIX, để bước vào thế kỉ XX với một niềm khao khát lớn: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ: tự do, bình đẳng, bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn sau những chữ ấy...” (1)

  • Từ rất nhiều năm nay tôi rất muốn bày tỏ đôi điều về những bi kịch cuộc đời mà nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) từng chịu đựng và trăn trở, từng nén vào lòng để sống và sáng tác.

  • Chiều 17.11 vừa rồi, ở địa chỉ 26 Lê Lợi đã diễn ra cuộc tọa đàm giữa đoàn nhà văn Trung Quốc với Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật, Phó Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ đã tháp tùng đoàn nhà văn bạn từ Hà Nội tới Huế.