Nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo trả lời phỏng vấn

16:02 29/08/2008
"Những bức tranh sơn thủy đầu tiên đã chiêu đãi chúng tôi quýt cam và bánh mỳTrưa no nê nhìn phố xá trăm màu.Tối tìm chỗ ngủ lang thang nhớ mẹ".

TRỊNH THANH SƠN (T.T.S): Anh nổi tiếng là một nhà thơ (hiện là Ủy viên Hội đồng thơ, Hội Nhà văn Việt Nam) – nhạc sĩ tài hoa, lại còn là một họa sĩ vẽ bìa sách rất đáng nể... bên cạnh một nhà báo năng nổ, xông xáo, cộng tác với nhiều tờ báo khắp cả nước, vậy các công việc có chồng chéo lên nhau và làm hại nhau không? Thực lòng, anh dồn tâm huyết cho công việc nào hơn cả?
NGUYỄN TRỌNG TẠO (N.T.T): Những người làm công việc sáng tạo văn học nghệ thuật đều xuất phát từ năng khiếu bẩm sinh và đam mê của riêng mình. Người ta bảo đấy là "trời cho" hoặc "giời bắt tội". Có người trời cho nhiều, có người trời cho ít. Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Trịnh Công Sơn đều là những người đa tài, họ "động" vào các lĩnh vực trời cho, đều thành công cả. Tôi đến với văn thơ, nhạc, họa hay làm báo đều rất tự nhiên, và cũng có ít nhiều thành công. Lĩnh vực nào cũng có giải thưởng cả đấy. Tuy nhiên, làm thơ vẫn là công việc mà tôi tâm đắc hơn cả. Đến nay tôi đã xuất bản được 8 tập thơ và 2 tập trường ca. Về vẽ có chuyện khá thú vị là hồi nhỏ tôi đã vẽ tranh, và một lần cùng bạn mang tranh vào bán ở chợ Vinh (cách nhà tôi 40km). Sau này làm thơ tôi có nhắc đến kỷ niệm đó.
"Những bức tranh sơn thủy đầu tiên đã chiêu đãi chúng tôi quýt
cam và bánh mỳ
Trưa no nê nhìn phố xá trăm màu.
Tối tìm chỗ ngủ lang thang nhớ mẹ".
T.T.S: Bài hát "Làng quan họ quê tôi" nổi tiếng của anh đã được viết trong hoàn cảnh nào? Một kỷ niệm đẹp của anh về bài hát đó?
N.T.T: Bài hát LQHQT được sáng tác vào năm 1978 tại làng Khương Hạ (Hà Nội), hồi đó tôi đang dự trại sáng tác văn học của quân đội, sau khi được anh Nguyễn Phan Hách đưa cho bài thơ "Làng quan họ" nhờ tôi phổ nhạc. Lúc ấy tôi chưa hề đến Bắc Ninh hay Bắc Giang lần nào. Bài hát này thành công chắc là nhờ vào tình yêu làng quê của tôi từ nhỏ. Năm 1979, tôi đang cùng bộ đội tình nguyện Việt tham gia tiểu phỉ ở Lào thì được nghe Đài TNVN phát bài hát này lần đầu tiên. Sau này bài hát được chọn vào 100 ca khúc Việt Nam trong chương trình Karaoke của Nhật Bản. Nó cũng đã được giàn nhạc giao hưởng Laizich biểu diễn trong tuần văn hóa Việt Nam tại CHDC Đức, và gần đây, nó là một trong hai nhạc phẩm VN (cùng với Trịnh Công Sơn) có tên trong danh mục chương trình biểu diễn khai trương dịch vụ quảng cáo trên màn hình điện tử LED (VINAVISION) tại Trung tâm triển lãm Giảng Võ. Một kỷ niệm vui: Tôi và bạn bè vào nhà hàng rắn ở Gia Lâm, anh chủ nhà hàng khi biết tôi là tác giả bài hát này đã vui vẻ chiêu đãi toàn bộ bữa tiệc vì anh đã lấy được cô vợ Bắc Ninh nhờ thích hát LQHQT.
T.T.S: Có người nói anh là người chăm bẵm hết lòng cho những nhà thơ trẻ và sẵn sàng làm vệ sỹ cho họ. Ý kiến đó thực hư ra sao?
N.T.T: Tôi thích các nhà thơ trẻ vì họ thường mang tới cho thơ bộ mặt mới mẻ nhất. Đã là cái mới thì không dễ được chấp nhận. Tôi ủng hộ cái mới, thường bị tư duy bảo thủ ngáng trở. Đó là điều bình thường. Nhưng tôi tin cái mới sẽ thắng.
T.T.S: Dường như các nghệ sĩ đa tài đều gặp nhiều trắc trở trong đời sống riêng tư, anh có nghĩ như vậy không?
N.T.T: Những người tài thường có cá tính "khác người". Ngựa hay thường lắm tật. Nếu có trắc trở trong đời sống riêng tư thì tôi luôn lấy câu của người xưa "tiên trách kỷ hậu trách nhân" để răn mình.
T.T.S: Điều làm anh quan tâm nhất trong đời sống văn nghệ của ta hiện nay là gì?
N.T.T: Đấy là sự thật. Hình như văn nghệ của ta chưa thấu thị sự thật, hoặc né tránh sự thật, hoặc không đủ tài (?), không đủ điều kiện để đạt tới sự thật lớn của dân tộc và thời đại.
T.T.S: "Em mèo ơi đừng đến nữa/ sợ em dựng dậy tử thi" (Chiêm cảm – ĐDCNL) là hai câu thơ khá đặc biệt của anh. Sao lại có "em mèo" và sao "em mèo" lại dựng dậy tử thi? Hay anh thuộc về trường phái thơ hũ nút?
N.T.T: Nếu nhớ điển tích "mèo nhảy qua xác chết" thì câu thơ của tôi sẽ trở nên dễ hiểu. Tất nhiên thơ không chỉ nói về điển tích mà dùng điển tích để nói một vấn đề khác, đấy là tình yêu, "Em mèo" vừa là mèo lại vừa là em nữa.
T.T.S: Giới âm nhạc có coi anh là kẻ lạc loài và muốn "đuổi" anh về với Nàng thơ không? Anh ăn ở với họ có "cơm dẻo, canh ngọt" không?
N.T.T: Các nhà thơ thường quý tôi vì tôi còn là một nhạc sĩ. Còn các nhạc sĩ lại quý tôi vì tôi còn là một nhà thơ. Có lẽ nhờ thế mà tôi trở thành người giàu có về đường bạn hữu.
T.T.S: Hằng ngày, anh ngủ mấy tiếng? Anh thường viết vào ban đêm hay ban ngày? Khi làm thơ, anh có... thắp bạch lạp và hương không?
N.T.T: Có đêm tôi thức trắng vì bạn bè. Có đêm tôi thức trắng vì đọc và viết. Nhưng nói chung thì cũng phải ngủ ít nhất 6/24 tiếng. Tôi thường viết vào buổi sáng (từ 4 – 7 giờ 30). Đây là thời gian rất yên tĩnh, đầu óc thường minh mẫn và cảm xúc thì trong lành. Vào thời gian và không gian ấy dù không thắp nến, đốt trầm thì tâm linh vẫn sáng và thơm.
T.T.S: Ít người biết hiện anh đang sống với... ai trong nhà mình. Anh có thể bật mí đôi chút về đời tư được không?
N.T.T: Tôi có 3 cháu (2 gái, 1 trai). Cháu gái lớn đang sống với tôi ở Hà Nội. Hai cháu nhỏ và vợ tôi đang sống với ông bà già ở Huế. Hai vợ chồng tôi thường "làm việc" với nhau qua điện thoại. Vợ tôi là giáo viên, nên gia đình thường sum họp vào ngày hè, và ngày tết. Vợ tôi thường nói đùa là lấy chồng thời bình mà cứ như lấy bộ đội thời chiến.
T.T.S: Không phải ai cũng ưa thơ anh, càng không phải ai cũng... dám chơi với anh. Anh có buồn vì điều đó?
N.T.T: Tôi rất thích chuyện "Bá Nha – Tử Kỳ". Làm thơ và đọc thơ là câu chuyện tâm đắc, tri âm. Một người đồng cảm là đã đủ. Nhưng tôi có nhiều độc giả đấy chứ? Bằng chứng là từ chí Bắc có khá nhiều người thuộc thơ tôi, thậm chí có người còn công khai bắt chước giọng thơ của tôi. Phải khoe với anh một chút là tôi có đến cả trăm bài thơ bạn bè đề tặng. Thích là một việc, chơi lại là một việc khác, "dám chơi" lại là một việc khác nữa! Thú thực là có lúc tôi đã giật mình thấy thời gian mình giành cho bạn bè "hơi bị" nhiều. Rất mong được chia sẻ về ý nghĩ thiển cận này.
T.T.S: Lâu lắm không thấy anh công bố bài hát mới nào? hay là anh "quên" nhạc rồi?
N.T.T: Tôi không chú tâm nhiều vào sáng tác âm nhạc mà chỉ thường viết ca khúc theo ngẫu hứng. Sau khi xuất bản album Tình khúc bốn mùa, thỉnh thoảng tôi vẫn viết ca khúc, nhưng cũng ít công bố. Gần đây có thêm 3 ca khúc đoạt giải thưởng là Đôi mắt đò ngang, Đồng Lộc thông ruCánh đồng ở giữa hai làng. Bài hát mới nhất của tôi là Có một ngày, hai câu thơ đầu của lời ca là hai câu mở đầu một bài tiểu luận của Ngô Minh.
T.T.S: Một nhà thơ và một nhạc sĩ trẻ mà anh đánh giá có triển vọng nhất hiện nay?
N.T.T: Tôi thấy có dăm nhà thơ trẻ đang nổi lên gần đây, đặc biệt là Văn Cầm Hải (Huế) và Vi Thuỳ Linh (Hà Nội). Như đã nói ở trên là tôi rất kỳ vọng về họ dù có người không ưa họ. Còn âm nhạc thì tôi lại rất quan tâm đến nhạc sĩ Ngọc Đại, dù đã trên 50 tuổi rồi, nhưng âm nhạc của anh trẻ hơn cả những nhạc sĩ trẻ đang thịnh hành.
T.T.S: Ông Trịnh Công Sơn và ông Hoàng Phủ Ngọc Tường có phải là hai người mà anh yêu quý nhất. Anh đánh giá về họ thế nào?
N.T.T: Hai người mà anh nhắc tới là hai nhân vật rất nổi tiếng. Họ và tôi đều có gắn bó với xứ Huế, và có những đồng cảm sâu sắc trong quan niệm sáng tác và vui sống. Tôi nghĩ họ là hai nhà nhân văn có tài năng độc đáo. Họ đồng thời là hai nhà văn hóa hành văn đầy cá tính, không lẫn với những người khác, và có ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống văn nghệ Việt Nam cuối thế kỷ XX.
T.T.S: Phải nói một lời gan ruột về điện ảnh nước nhà hôm nay, anh sẽ nói thế nào?
N.T.T: Điện ảnh VN đã đi những bước dài đáng tự hào. Nó như là cơm không thể thiếu với người Việt hôm nay. Nhưng hình như tính kể chuyện đang lấn át tính điện ảnh. Ngay trong văn học hôm nay, người ta đang cố gắng giảm tính kể chuyện mà tăng tính viết truyện. Tôi nghĩ điện ảnh cần tạo ra nhiều ấn tượng về hình hơn nữa.
T.T.S: Quyển sách "Văn chương cảm và luận" của anh được coi là quyển sách có tính sư phạm, đáng được đưa vào các nhà trường, anh có nghĩ như vậy không?
N.T.T: Tôi viết tiểu luận phê bình như để giải tỏa những cảm hứng thưởng thức văn nghệ của riêng mình, qua đó cũng phát biểu những quan niệm nghệ thuật cá nhân. Nếu được chia sẻ thì còn thú vị nào bằng. Những gì đưa vào giảng dạy ở nhà trường phải ở "tiêu chuẩn" rất cao. Tôi nghĩ điều đó nên dành cho các nhà chuyên môn thì hơn.
T.T.S: Rất nhiều người nói với tôi rằng: Trong Hội đồng thơ của Hội Nhà văn VN, anh là người "khó mua" nhất? Người ta có "mua" anh để được vào Hội hoặc được giải thưởng không?
N.T.T: Thực ra thì đã có ai "mua thử" đâu mà tôi biết mình dễ hay khó?... Nhưng nói cho cùng, nhà văn là những người thiên về tình cảm, hay cả nể bạn bè đồng nghiệp. Tuy nhiên, vào hội hay giải thưởng không phải là mua bán mà được. Những người mua danh hay bán danh nếu có trót lọt, rồi cũng sẽ bị thiên hạ chê cười.
T.T.S: Sau khi xuất bản cuốn sách mới nhất "Chuyện ít biết về văn nghệ sĩ" anh đã nhận được phản ứng của dư luận ra sao, họ khen chê thế nào?
N.T.T: "Đấy là cuốn sách dễ đọc, có nhiều chuyện lạ về đời tư văn nghệ sĩ khá thú vị" – Có tờ báo đã nhận xét như thế. Nhiều bạn bè chưa được tặng sách, dù tôi đã tặng trên 100 cuốn rồi. Thú thực là giá sách 50 ngàn đồng, tôi không thể nào tặng cho tất cả...
T.T.S: Trong quan niệm của anh, một bài thơ hay phải hội tụ những phẩm chất gì? Trong các nhà thơ đương đại Việt Nam, anh yêu ai nhất? Anh gần với ai nhất?
N.T.T: Tôi cho rằng, một bài thơ hay phải hội tụ được ý-cảnh-thần. Nếu yếu một trong ba điều ấy thì bài thơ sẽ trở nên khập khiễng. Thơ Việt thế kỷ XX khá nhiều bài đã đạt được cái tỷ lệ vàng trong tam giác ấy như Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử hay Lá diêu bông của Hoàng Cầm. Tôi nhắc hai bài thơ này vì đấy là của hai tác giả rất độc đáo trong thơ ta, hơn nữa chính thơ của những tác giả này đã có tác động rất lớn vào tình yêu thi ca của tôi suốt mấy chục năm qua.
T.T.S: Uống rượu có phải là sở thích duy nhất trong nhu cầu ẩm thực của anh không? Khi đang viết, anh có uống rượu không?
N.T.T: Nói đúng hơn, uống rượu là sở thích của tôi khi gặp bạn. Bởi tôi không bao giờ uống rượu một mình. Còn đang viết mà uống rượu thì chắc là rượu sẽ mất ngon hoặc viết sẽ mất hay (viết khác với nói). Ấy thế mà có lần nhờ uống rượu với bạn, lúc say tôi đã thốt ra hai câu thơ mà sau đó được truyền tụng rất nhiều ở Huế. Đó là:
Sông Hương hóa rượu ta đến uống.
Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng
say.
T.T.S: Vì lẽ gì mà anh rời Huế ra Hà Nội? Nếu anh không tiện thổ lộ thì thôi. Xa Huế, anh nhớ điều gì nhất?
N.T.T: Hồi 1975 đi dọc đất nước thống nhất, tôi trộm nghĩ rằng: Làm văn nên ở Hà Nội, làm báo nên ở Sài Gòn, nghỉ hưu nên ở Huế. Vậy mà hơn 10 năm ở Huế tôi đã làm được tập thơ quan trọng của đời tôi đấy là tập Đồng dao cho người lớn. Có lần tôi đã tâm sự: Huế đã ném vào thơ tôi môt vốc khói sương, làm cho thơ tôi lung linh và huyền ảo hẳn lên. Làm sao mà không nhớ khói sương huyền bí của Huế được.
T.T.S: Xưa nay, anh ghét điều gì nhất? Anh có "kẻ thù" không?
N.T.T: Tôi ghét sự giả dối và cơ hội. Đó cũng là 2 "kẻ thù" nguy hiểm của tôi chăng?
T.T.S: Yếu mềm là nét tính cách phổ biến của nghệ sĩ, anh có khi nào yếu mềm không? Vì lẽ gì? Yêu đương là dinh dưỡng của thi ca – người ta nói thế, còn anh?
N.T.T: Yếu mềm trước cái đẹp, Lý Bạch đã nhảy xuống sông vớt trăng mà chết. Không yếu mềm trước cái đẹp, tôi đã không làm thơ, làm nhạc. Nhà thơ Xuân Hoàng có lần nhận xét, đôi lúc tôi đã tự dựng lên những barie để vượt qua. Nhưng trong đời tôi đã nhiều lần phải vượt qua những barie thật. Nhiều khi đau buồn và tuyệt vọng lại là dinh dưỡng cho sáng tạo nghệ thuật. Tôi thường nghĩ tới điều đó và thấy mọi trả giá cho nghệ thuật, thật là không uổng.
TRỊNH THANH SƠN (Thực hiện)

(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Rất nhiều hoa, rất nhiều nụ cười đã hiện diện một cách cởi mở và đầm ấm trong buổi chiều ngày 18.7.2008 tại Trung tâm Du lịch và Dịch vụ Festival - Huế, nơi diễn ra Lễ kỷ niệm 25 năm Tạp chí Sông Hương phát hành số báo đầu tiên (1983-2008).

  • HỒ THẾ HÀĐến nay, Tạp chí Sông Hương đã tròn một phần tư thế kỷ (1983-2008) kể từ số đầu tiên được ra mắt bạn đọc. Hai mươi lăm năm đủ để vui buồn ôn lại những chặng thác ghềnh và phẳng lặng của một dòng sông từ nguồn ra biển.

  • ĐẶNG VĂN VIỆTKỷ niệm 63 năm Cách mạng Tháng TámSau ngày đảo chính (9-3-1945), Nhật lật đổ Pháp. Phong trào Việt Minh như một luồng gió mạnh, thổi từ miền Bắc vào miền Trung, miền Nam, thức tỉnh lòng yêu nước, thương nòi của người dân đất Việt, thúc giục mọi người sẵn sàng để chớp thời cơ, giành lại chính quyền về tay nhân dân.

  • TRẦN THÙY MAIThuở trước, mỗi đêm cuối năm, anh Hải Bằng bao giờ cũng đến thăm trụ sở Hội Văn nghệ, rồi túc tắc ngự trên chiếc xe babeta màu đỏ, ghé thăm nhà bạn bè thân hữu đó đây trước khi quay về để kịp đón giao thừa.

  • NGUYỄN QUANG HÀCuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cả nước xôn xao về vụ án Trần Dụ Châu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong một cuộc vui gần đây, nhân nhắc đến việc bình chọn các nhân vật, sự kiện nổi bật trong năm trên báo chí, có ý kiến phong cho nhà văn Hồng Nhu là người đạt nhiều cái “nhất” nhất trong làng văn ở Huế.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG - Chúng ta lại thắng rồi. Thỉnh thoảng lão lại reo lên như thế khi bất chợt gặp một người mà lão coi là bạn. Lão nói câu ấy cả khi lão đang thoi thóp trên giường bệnh, miệng méo xệch lão nói một cách khó khăn nhưng vừa nói lão vừa cười khiến cho người ta yên tâm là lão bắt đầu sống trở lại, cái chết còn lâu mới quật được lão.

  • PHẠM QUANG TRUNGAnh Cao Xuân Hạo kính mến!Trước tiên, xin thú nhận, tôi là người mê say tên tuổi anh đã từ lâu. Tuổi trẻ và sau đó là những năm tháng trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu, phê bình văn chương đã đưa tôi đến những trang dịch văn xuôi Nga – Xô viết đầy sức cuốn hút của anh, như Chuyện núi đồi và thảo nguyên, Chiến tranh và hòa bình, Truyện ngắn Gorki, Con đường đau khổ, Tội ác và trừng phạt…

  • VINH HUỲNHLTS: Có bạn đọc gửi thư đến Toà soạn chúng tôi đề nghị nếu chọn topten sự kiện nổi bật trong làng báo chí năm 2001 thì không nên bỏ qua “hội chứng” đánh vào các trường đại học, trong đó có Đại học Nghệ thuật Huế và trường Viết văn Nguyễn Du.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH(Tham luận đọc trong hội thảo)Cho đến đầu thế kỷ 21 này, chúng ta vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về mặt kinh tế đã là điều đáng sợ nhưng cái đáng sợ hơn là nguy cơ vong bản về mặt văn hoá. Xu thế toàn cầu hoá đang xâm nhiễm và xâm thực vào đời sống chúng ta một cách ngọt ngào mà chua cay, dịu êm mà đẫm máu.

  • TRẦN HOÀNLTS: Từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 12 năm 2001 đã diễn ra cuộc tập huấn - hội thảo báo chí văn nghệ địa phương tại thủ đô Hà Nội. Nhạc sĩ Trần Hòan, Phó Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Phó Chủ tịch UBTQ.LH các Hội V.H.N.T Việt Nam đã đọc báo cáo đề dẫn hội nghị. Sông Hương xin trích đăng một phần trong báo cáo đó (đầu đề do chúng tôi đặt).

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀM(TBT: 1983 - 1986)Bây giờ nhìn lại những số Sông Hương đầu tiên (số 1 ra mắt tháng 6-1983) không khỏi cảm thấy tờ tạp chí như một… cô gái quê, giản dị, khiêm nhường, có vẻ… tồi tội. Giấy đen. Bìa mỏng. Bát chữ typo chỗ đậm chỗ nhạt. Sông Hương làm sang cho in ảnh tác giả, khốn nỗi, ảnh loè nhoè, không rõ mặt. Giá bao cấp 7 đồng/số, vẫn bị chê đắt. Được cái lượng bản in ngay số đầu là 4.000 bản. Trông khí sắc cuốn tạp chí vẫn chưa xa cái thời tranh đấu chống Mỹ, in sách báo trong gác trọ sinh viên.

  • TÔ NHUẬN VỸ(TBT: 1986 - 1989)Có năm kỷ vật của Hải Bằng tặng tôi và gia đình, từ ngày anh còn sống cho đến nay, sau 10 năm anh mất, tôi vẫn nhìn ngắm và chăm sóc hàng ngày. Đó là bức tranh hồ sen, là hai câu thơ anh viết trên giấy đặc biệt, là tất cả các tập thơ anh in từ sau 1975, là đôi chim hạc anh tạo bằng rễ cây và con chó Jò bé xíu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(TBT: 1991)Tôi có may mắn được làm Phó Tổng biên tập nhiều năm cho hai “đời” Tổng biên tập nổi tiếng là Nguyễn Khoa Điềm và Tô Nhuận Vỹ, nhưng đến “phiên” mình được gánh vác trọng trách thì chỉ đảm đương được một thời gian ngắn. Đã đành do tài hèn sức mọn, nhưng cũng vì đó là giai đoạn khó khăn sau “Đổi Mới”, chúng ta đang phải tìm đường, nhiều quan niệm - nhất là về văn học nghệ thuật chưa dễ được nhất trí…

  • HỒNG NHU(TBT: 1992 - 1997)Thời gian như bóng câu qua cửa. Mới đó mà đã một phần tư thế kỷ, tờ tạp chí Sông Hương có mặt cùng bạn đọc trong và ngoài nước.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH(TBT: 2000 - 2008)Vậy là đã tròn một phần tư thế kỷ. Ngày ấy, cũng vào mùa “Hạ trắng” nắng lên thắp đầy như nhạc Trịnh, tờ Tạp chí Sông Hương - tạp chí sáng tác lý luận phê bình nghiên cứu văn học nghệ thuật của xứ Huế được ra đời và đi qua cái ngưỡng “vạn sự khởi đầu nan” một cách kỳ diễm, đầy ấn tượng.

  • MAI VĂN HOANSáng 8 - 5 - 2008, ghé quán  26 Lê Lợi (trụ sở Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế) ngồi uống cà phê với hai nhà thơ Kiều Trung Phương và Ngàn Thương, tôi vô cùng sửng sốt khi Ngàn Thương cho biết người suốt đời đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử là anh  Phạm Xuân Tuyển đã mất cách đây gần 7 tháng tại Phan Thiết.

  • I.Con người ấy từng mang tên Nguyễn Sinh Cung, và tên chữ Nguyễn Tất Thành, trước khi đến với tên Nguyễn Ái Quốc, đã trải một tuổi thơ vất vả vào những năm kết thúc thế kỉ XIX, để bước vào thế kỉ XX với một niềm khao khát lớn: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ: tự do, bình đẳng, bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn sau những chữ ấy...” (1)

  • Từ rất nhiều năm nay tôi rất muốn bày tỏ đôi điều về những bi kịch cuộc đời mà nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) từng chịu đựng và trăn trở, từng nén vào lòng để sống và sáng tác.

  • Chiều 17.11 vừa rồi, ở địa chỉ 26 Lê Lợi đã diễn ra cuộc tọa đàm giữa đoàn nhà văn Trung Quốc với Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật, Phó Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ đã tháp tùng đoàn nhà văn bạn từ Hà Nội tới Huế.