Sau khi hoàn tất bản thảo tập thơ Độc Hành thì nhà thơ Hải Bằng cũng “độc hành” về chốn vĩnh hằng vào ngày 7 tháng 7 năm 1998.
Nhà văn Trần Phương Trà (bìa phải) với cố nhà thơ Hải Bằng (bìa trái) tại Đại hội Nhà văn Việt Nam 1995 - Ảnh: tư liệu
Nhà thơ Hải Bằng ra đi đã để lại hàng chục tập thơ, hàng trăm bức tranh, hàng nghìn tác phẩm tạo hình từ rễ cây. Sức lao động nghệ thuật dai dẳng, không biết mỏi mệt của ông còn được minh chứng qua bài thơ cuối cùng viết trong những khoảnh khắc lâm chung: BÀI THƠ CUỐI CÙNG CỦA NHÀ THƠ HẢI BẰNG Tôi thở bằng hai bờ sinh nhật Sông Hương.Hôm nay tôi sẽ chuyển lại hơi thở mình cho Mẹ tôi chưa sinh tôi ngày ấy Cám ơn con đò sẽ chở tim tôi về từng bến mới. Khoa cấp cứu bệnh viện Trung Ương Huế Ngày 2 tháng 7 năm 1998 Hải Bằng |
Người vắt kiệt đời mình cho thơ, cho họa
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Mười lăm giờ ngày thứ ba 7/7/98, tôi ngồi đọc lại bài thơ “Lời niệm” của anh Hải Bằng tặng tôi từ tháng 11/1996. Bài thơ tứ tuyệt viết rõ ràng trên mảnh giấy dày màu trắng anh thường viết thư cho bè bạn. Đầu trang có hai câu thơ:
“Trời hóa tôi thành chim báo bão
Em là sóng gió bủa vào thơ…”
mặt sau có ghi bút danh Hải Bằng (Vĩnh Tôn), địa chỉ và điện thoại nhà riêng ở Nguyễn Công Trứ - Huế.
Từ hôm 22/6, tôi được tin anh vào nằm ở khoa cấp cứu Bệnh viện Trung ương Huế, gần đây nghe tin anh có tỉnh lại nhưng đâu ngờ lúc tôi đang đọc thơ anh, nghĩ nhiều đến anh chính là lúc anh chuẩn bị từ giã thế giới này. Cuối buổi chiều, nhạc sĩ Mặc Hy điện thoại báo tin buồn: Hải Bằng đã mất lúc 15h20.
Ba tuần nay, tin nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị xuất huyết não nằm tại bệnh viện đa khoa Đà Nẵng rồi tin nhà thơ Hải Bằng ốm nặng ở Huế đã làm cho tôi bồn chồn, lo lắng và thương cảm.
Năm 1962, anh Hải Bằng từ Đồng Hới ra Hà Nội và tôi được gặp anh trong một lần trò chuyện cùng với các anh Tuân Nguyễn, Phùng Quán. Anh kể cho chúng tôi nghe những ngày vất vả ở Quảng Bình nhất là những lúc đi câu cá đem bán ở chợ Cảnh Dương.
Những năm sau đó, khi đi công tác ở Quảng Bình, Vĩnh Linh, tôi thường đến thăm anh. Có lúc, anh đưa tôi về Bàu Tró rồi xuống một thuyền đánh cá ngồi nói chuyện, ăn cá tươi, uống rượu với các bác ngư dân mà anh vốn thân thuộc.
Có dạo gần Tết Nguyên Đán, tôi thấy trong phòng anh có nhiều bức tranh vẽ bằng bột màu trên bìa xanh, hồng, vàng. Hải Bằng vẽ người thiếu phụ miền Nam mặc áo bà ba đen quàng khăn rằn đứng tựa bên gốc dừa nhìn ra phương Bắc trông ngóng, phong cảnh biển, làng chài, dòng sông, bến nước, cảnh nông thôn trong mùa xuân. Anh cầm tập tranh trên tay và nói:
- Đây là “tiêu chuẩn” cho cái Tết của mình.
Từ một người con cưng trong gia đình hoàng tộc, với cái tên Vĩnh Tôn, năm 1945 vừa mười lăm tuổi anh đã đi theo bộ đội. Ở chiến khu Dương Hòa, anh có nhận được quà tiếp tế và thư của gia đình. Cũng không phải là không có những lời mời gọi anh về lại thành phố; chỉ cần đi một kilômét băng qua mấy rặng nứa lồ ô ven sông gần lăng Gia Long là có thể về Huế dễ dàng, khỏi phải chịu cảnh ăn cơm gạo mục, khỏi phải bị bệnh sốt rét dày vò. Nhưng Vĩnh Tôn vẫn say sưa với con đường anh đi ở Trung đoàn 101, anh làm thơ ký bút danh Văn Tôn. Bài thơ “Cồn cỏ” của Hải Bằng được giải thưởng báo Văn Nghệ năm 1965. Tôi đã đưa nghệ sĩ Châu Loan ngâm bài thơ ấy và chương trình phát thanh văn nghệ của Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát sóng nhiều lần.
Những năm chiến tranh ác liệt, Hải Bằng công tác ở Công ty phát hành sách Quảng Bình. Vợ anh, chị Phạm Thị Chiến, quê ở xã Bảo Ninh, cửa biển Nhật Lệ cùng cơ quan với anh. Sau 1975, anh trở về công tác ở sở Văn hóa Bình Trị Thiên rồi Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên-Huế.
Năm 1982, Hải Bằng bị ung thư vòm họng phải mổ tại Viện tai mũi họng (nằm trong bệnh viện Bạch Mai) hằng ngày phải đi tia xạ. Hai chục năm mới ra lại Hà Nội, anh được nhiều bạn bè đến thăm. Anh cảm động lấy một cuốn sổ ghi tên những người đến thăm và nói:
- Cứ nhìn vào tên của anh chị em đến đây, mình không ngờ anh chị em thương mình đến thế.
Nhạc sĩ Mặc Hy, bạn chiến đấu ở Sư đoàn 325 với Hải Bằng đã cùng tôi liên tục mười năm vào Thừa Thiên Huế. Có chuyến đi dài tới 2 tháng. Vào đến Huế, chúng tôi đã thấy Hải Bằng ra đón ở ga. Chúng tôi về nhà Hải Bằng nghỉ lại. Chúng tôi hiểu, với bệnh tật và bộ xương gầy còm của anh, không có một yêu cầu nào của anh mà khả năng mình làm được lại không làm cho anh vui. Có lần tôi đã nhận phòng ở nhà khách tỉnh cũng phải khóa lại để về nhà anh.
Hải Bằng với chiếc mũ phớt kiểu cách, quần áo chững chạc, đi giày da, cưỡi xe Babetta hay Chaly đi khắp thành phố. Một buổi sáng, hơn hai chục anh chị em ở Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên lên Trúc Lâm, xã Hương Long quê tôi chơi. Buổi trưa, chúng tôi trải chiếu nằm trò chuyện dưới tán lá các cây măng cụt, dâu, bưởi... Hải Bằng đi lại khắp vườn nhà tôi, tìm các rễ cây và chú ý đến các mảnh ván, các vân gỗ... Anh nhặt rễ cây và xin mấy tấm ván. Sau đó ít lâu, mấy bức tranh vân gỗ của anh cũng bán được mấy trăm đô la...
Anh viết và vẽ hối hả như chạy đua với thời gian và sức khỏe. 12 tập thơ của anh đã xuất bản bên cạnh nhiều tranh, nhiều rễ cây tạo hình đã được triển lãm. Anh nhận được nhiều giải thưởng về thơ và họa. Bút ký “Tôi nhen sức sống theo từng bước đi để làm thơ về Huế” của anh được tặng thưởng những bút ký hay trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1996. Từ 1992 đến 1997 anh đã xuất bản 9 tập thơ với đủ các thể thơ: lục bát, tứ tuyệt, thơ 2 câu, thơ văn xuôi. Riêng về mưa Huế, anh đã viết hơn 100 bài.
Khi Hải Bằng thích một thứ gì của bạn bè thân thiết anh không e ngại vừa cười vừa nói rất nhanh: “Cho tau hí” nhanh quá nên chỉ còn nghe 2 tiếng “Tau hí!”. Nhà thơ Phùng Quán nhìn thấy thể trạng của Hải Bằng sau trận ốm nặng 1982 vẫn làm việc say sưa, thơ in ra rào rào, đã sáng tác nên câu chuyện: “Thần chết cầm lưỡi hái đến để mời Hải Bằng đi. Hải Bằng cầm lưỡi hái xem và thích thú nói với Thần Chết “Tau hí!” Thế là thần chết đành chịu thua Hải Bằng”.
Hải Bằng chỉ kịp ra dự khai mạc Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 5 (1995) đã phải đi cấp cứu ở Bệnh viện Việt Xô. Mấy năm nay, anh đã yếu lắm. Bằng nghị lực, anh vượt qua sự đau đớn của thể xác, anh sống hết mình và tiếp tục sáng tạo. Giờ đây những giọt dầu trong ngọn đèn Hải Bằng đã cạn kiệt. Cầu chúc nhà thơ yên nghỉ và những tác phẩm của anh còn lại với bạn bè, với cuộc đời.
Mưa Huế cũng khóc anh
Tưởng nhớ nhà thơ Hải Bằng
Vắt kiệt đời mình cho những bài thơ
Thổi hồn vào rễ cây vân gỗ
Đi hết tận cùng bao điều đau khổ
Anh sắt lại còn xương bọc lớp da
Nhớ chăng ai, trùng điệp đất Dương Hòa
Tuổi mười bảy say mưa nguồn chớp bể
Nhìn “trăng năm canh” mơ về giữa Huế
Dội mãi trong anh, tiếng “Sóng đôi bờ”...
Đi trăm nơi vẫn “tuổi Huế trong ta”
“Đề lên năm tháng”, “hát về ngọn lửa”
“Trăng đợi trước thềm” hay trăng soi “mùa lá đổ”
Thắm đượm tình quê không chút nhạt nhòa
Tiếc thương anh, chiều nay đã đi xa
Không được về bên anh, nước mắt tôi lặng lẽ
Người nằm đó có trăm bài thơ “mưa Huế”
Chắc giờ này mưa Huế cũng khóc anh...
Một cánh chim bằng bay trên biển xanh!
Hà nội 8-7-98
T.P.T
(TCSH114/08-1998)
----------------------------
(*) Những dòng chữ trong ngoặc kép là tên các tập thơ của nhà thơ Hải Bằng
TRẦN HUYỀN ÂN
Tôi thường hay nghĩ về tết gắn liền với hình ảnh của mạ tôi - người thường kể cho tôi nghe câu chuyện tết bằng câu mở đầu: “Hồi nớ, tết là...”.
Kinh tặng, hương hồn nghệ sĩ Châu Thành
“Những con hổ xám đường 14” là biệt danh mà nguyên Thành đội trưởng Huế Thân Trọng Một dùng để tôn vinh một Trung đội bộ đội địa phương Quận 4 miền Tây Thừa Thiên do A Lơn chỉ huy.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm, kết thúc bằng Điện Biên Phủ lẫy lừng, chờ tổng tuyển cử sau Hiệp định Genève hai năm mòn mỏi, quân dân ta còn phải trường kỳ kháng Mỹ dài mấy mươi năm.
LÊ XUÂN VIỆT
Sau ngày miền Nam giải phóng (Xuân 1975) tôi chuyển công tác từ Đại học tổng hợp Hà Nội vào Huế. Ở thành phố đẹp và thơ, đầy mơ mộng này rất hợp ngành văn mà tôi say mê và theo đuổi từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông.
PHẠM HỮU THU Nếu không nghe những nhận xét, dù kiệm lời của những vị cựu lãnh đạo địa phương và không trực tiếp kiểm chứng, thú thật là tôi không thể viết về con người này, một con người không chỉ dũng cảm trong chiến đấu mà còn giàu lòng nhân ái đối với đối phương và tận tâm vì nghĩa tình đồng đội. Người đó là ông Lê Hữu Tòng, nguyên Huyện đội trưởng Huyện đội Hương Thủy!
Hồng Thế vừa làm thơ vừa cày ruộng ở quê. Cách đây mấy năm, anh có con bò già không cày được nữa, phải bán đi để mua bò mới.
TẤN HOÀI
bút ký
Nhà văn Graham Grin có một quyển tiểu thuyết "MỘT NGƯỜI MỸ TRẦM LẶNG".
NHẤT LÂM
Bút ký
NGUYỄN PHÚC ƯNG ÂN
Hồi ký
Tôi tỉnh giấc. Ngoảnh sang bên cạnh thấy các bạn đã ngồi dậy. Nằm yên trong bóng đêm, tôi thử tính xem mình đang còn cách Huế mấy cây số.
HỮU THU - CHIẾN HỮU
Ghi chép
Cuối năm ngoái, huyện Hương Trà tổ chức khánh thành hồ chứa nước Khe Rưng.
THANH THANH
Thật bất ngờ đọc lại một năm thơ Sông Hương dưới trăng rằm mười bốn chạp rồi ngơ ngẩn bấm đốt tay.
HÀ KHÁNH LINH - NGUYỄN KHẮC PHÊ
Chuẩn bị ra số kỷ niệm 10 năm giải phóng, Tòa soạn Tạp chí Sông Hương đã có kế hoạch phỏng vấn đồng chí Vũ Thắng, ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, nhưng chương trình làm việc trong tuần của đồng chí văn phòng đã xếp quá chật.
PHẠM HUY LIỆU
Hồi ký
Đầu tháng 9/1968 tôi điều trị ở Bệnh viện Binh trạm 34, tỉnh Saravane, Nam Lào. Viện nằm trong thung lũng. Xung quanh nhiều núi cao rừng già nên cũng ít bị máy bay Mỹ quấy nhiễu.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Bắt sáu tên giặc Pháp nhảy dù xuống huyện Phong Điền.
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế thắng lợi, chiều cùng ngày, tại Sân vận động Bảo Long (về sau đổi gọi là Sân vận động Tự Do), trước hàng vạn đồng bào dự mít tinh, Ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên được thành lập và ra mắt, do nhà giáo Tôn Quang Phiệt làm Chủ tịch.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Tôi tỉnh giấc khi trời còn tối, nhưng không sao ngủ được nữa. Không phải vì tiếng động của những guồng máy quay, tiếng những vành thép nghiền vỡ vụn đá và cờ-lanh-ke.
TRẦN SỬ kể
HOÀNG NHÂN ghi
Chiến tranh du kích ở huyện Hương Thủy trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã diễn ra với nhiều hình thức chiến đấu đầy tính chất sáng tạo của toàn dân.
NGÔ MINH
Đối với anh em làm thơ, viết văn ở ba tỉnh Bình - Trị - Thiên trong nhiều chục năm qua, nhà thơ Hải Bằng là người không thể quên!
HỒNG NHU
Tôi biết anh, đọc anh từ trong kháng chiến chống Pháp, nhưng mỗi người một đơn vị công tác, mãi đến năm 1972 mới gặp nhau. Đó là một ngày mùa hè, bấy giờ Đông Hà vừa mới được giải phóng.