Người thơ Phùng Quán bây giờ

09:21 07/01/2009
NGUYÊN ANMột nhà văn đồng hương cao niên hỏi tôi:- Sao bây giờ ta mới quen nhau nhỉ?Tôi chưa kịp trả lời, ông đã nói tiếp:- Thôi, từ nay nhé!

Nghe ông nói, tôi “Dạ”, mà mừng ít, lo nhiều. Mừng thì đã rõ lý do, còn lo, là vì từ lâu nay tôi vẫn nghĩ: Mình đến với bạn bè, với văn chương, liệu có ích lợi gì cho họ, haylà chỉ mang đến một ý nghĩ, một niềm vui giao cảm? Còn ông, với tôi, là cả một khoảng cách thật xa...
Vì cứ mang cái tâm trạng lo lo như vậy, nên dẫu đã có mấy lần được hẹn, được rủ tới nhà ông Phùng Quán, tôi rất muốn, vẫn cứ ngại ngùng. Tôi chả lạ lắm về ông, tôi đã xem ảnh ông hồi trẻ nhiều lần, một chàng trai vừa có vẻ đẹp học thức, vừa ánh lên vẻ đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ Điện Biên... Hồi đó, và ngay cả bây giờ, coi anh bộ đội thắng trận Điện Biên trở về, là anh hùng thời đại, cũng là tâm trạng thực..; tôi cũng được nghe kể chuyện ông viết những câu thiết tha: Yêu ai cứ bảo là yêu / Ghét ai cứ bảo là ghét / Dù ai ngon ngọt nuông chiều / Cũng không nói yêu thành ghét / Dù ai cầm dao dọa giết / Cũng không nói ghét thành yêu, thế mà cũng là cái cớ để lụy vào thân. Đó là những câu đã có anh bạn giáo viên của tôi chép tặng ông chú người yêu của anh ta (ông này làm cán bộ huyện, không muốn cô cháu gái kết hôn với anh bạn giáo viên của tôi).

Tôi không ngờ lại gặp ông Phùng Quán thế này: Chúng tôi ngồi uống nước chanh ở quán ven hồ. Anh bạn tôi vừa ở Nga về, sau khi kể chuyện nước Nga Xô Viết lâm nguy (Những năm 1988-1992) ở ta chưa mấy ai dám nói Nước Nga Xô Viết tan vỡ, sụp đổ như bây giờ), với vẻ mặt thật buồn, tự nhiên anh đọc: Tôi yêu nước Nga như yêu quê Việt / Vất vả, hiên ngang tươi thắm vô ngần / tôi quý dân Nga như làng quê Việt / Trên mỗi chặng đường, trong mỗi miếng cơm ăn...
- Ơ, anh chàng ni lẩy thơ Nguyễn Đình Thi hí!
Chúng tôi quay sang ông già râu tóc vẫn ngồi uống bên cạnh (hình như là rượu, vì cốc nhỏ), vẻ trầm ngâm tư lự. Anh bạn tôi không nói gì, đọc tiếp: Cầu cho em có được người tình như tôi đã yêu em, rồi im lặng, mắt dõi nhấp nhô sóng. Tôi nhìn kỹ ông già vừa hỏi, thốt nhiên kêu lên:
- Ông là Phùng Quán phải không?
Mắt ông reo vui, mà dáng ngồi vẫn thế.
- Ừ, mình đây.

Trong cái dáng ngồi với gương mặt của ông, tôi thấy có gì như nhẫn nại, cam chịu, chấp nhận, mà vẫn có vẻ bồn chồn ba động một ý nghĩ, sục sôi một dự định thì phải. Rồi ông cũng đọc thơ, rồi ông mời chúng tôi uống rượu... thế là quen nhau. Nhưng không hiểu sao, sau hôm ấy, vì đã buột miệng nói với ông rằng “Em dạy học ở Thái Bình mới lên Hà Nội...”, thì cũng chả sai nhưng không đúng lắm, lại thấy ông xoắn xuýt: “Dạy ở Thái Bình à? Có biết ông Nguyễn Hữu Đang không?”, thì tôi cứ thấy như là mình không phải với ông. Ông là người sống rất thật, thơ ông cũng trước sau nêu cao cái tấm lòng trung trinh chân thật sáng trong với đất nước, với lý tưởng mà ông đã gắn bó từ thuở thiếu thời...

Ấy là chưa kể, có lần, ông hỏi tôi: “Sao dạy học, lại dạy văn ở Thái Bình đến dăm năm mà cũng không biết ông Nguyễn Hữu Đang hỉ? Hay là cậu ngại ngùng gì mà không tìm ông ấy? Thấy ông gạn hỏi mãi, thì tôi kể đôi tí cho ông nghe chuyện ông Đang sống cạnh trường học, phải tự lo liệu cái ăn cái mặc... ông im nghe, đuôi mắt nhăn nheo ứa lệ, miệng lẩm bẩm “Thật à? Thật à? Tội quá, tội quá... Tôi đỡ lời cho ông bớt thương cảm xót xa: “Thì em cũng biết thấp thoáng thôi chứ không rõ lắm đâu, có lẽ bây giờ ông ấy khá hơn rồi...” Phùng Quán thì thầm, ấm ức đọc và nói nghe rất rành rẽ, âm vang: “Bắt phong trần phải phong trần / Cho thanh cao mới được phần thanh cao là rứa đó a? ua trời!...”. Chìm đắm trong suy tưởng một lúc, ông hỏi:
- Cậu lên đây đã quen với những ai rồi?
Tôi chưa kịp trả lời, đã nghe ông vừa hỏi vừa nói:
- Cậu thích dạy thơ hay dạy truyện? Theo mình biết thì có người dạy thơ hay mà dạy truyện không hay. Thơ là sự chưng cất như hóa học, anh không có vốn đời, không tinh tế sâu sắc thì không nói về thơ cho đúng và cho hay được. Người ta nghe anh nói, chẳng qua là lịch sự xã giao thôi...
- Vốn đời mà anh nói, chắc nghiêng về phía những trải nghiệm từ sự trắc trở buồn đau hơn là từ những thành đạt toại nguyện phải không?

Ông không trả lời tôi mà ra hiệu im lặng, rồi chậm rãi đọc: Biết khổ đấy/ Mà không ngại khổ/ Bởi đất sinh ra là để làm cà/ Mặc cho sâu róm đầy cành/ Rễ còn bám đất/ Còn khôn nguôi tím nguôi xanh... rồi nói: Cậu hiểu là những ai muốn làm cây cà quả cà chứ? Cây cà ở trong quê ta đó, chứ không phải là cây hoa cây quả gì khác đâu. Viết ý này thì phải mượn chuyện vịnh cây cà thôi, như ngày xưa ông Uy Viễn vịnh cây tùng cây thông ấy.
Tôi nghe và ngắm ông, chợt thấy ông có nét giống Trần Hữu Thung. Tôi gợi:
- Thơ anh viết nhiều về các loài cây, toàn viết về cây, đúng không? Sao vậy?
- Mình có nhiều năm, nói như mấy ông, là bầm dập, mình vịn thơ mà đứng dậy, mình cũng nhìn cây mà nghĩ, mà đi thôi.
- Thì cũng là tiếp tục cái mạch thơ “trông cây mà nhớ nghĩ đến người” từ xửa từ xưa theo lối thơ chở đạo văn ngụ tình đồng cảnh đồng tâm đó chăng?
- Chưa chắc hẳn thế đâu! Luân có biết bài hoa sen của anh chứ? Không phải là cái ý tự răn đời rằng gần chỗ bẩn mà ta phải phấn đấu để ta khỏi dơ, ta vẫn tươi tốt đẹp đẽ, như mấy ông thầy dạy văn các cậu vẫn giảng đâu!

Rồi Phùng Quán đứng dậy, đọc và diễn như trên sân khấu trước bao người:
Bùn với sen đâu phải chuyện gần?
Chính là sen mọc lên từ trong đó
Gốc của sen là thăm thẳm bùn đen
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh...

Tất cả, tất cả, tất cả!...
Là do bùn hôi tanh nuôi dưỡng
Ngay cả hương thanh khiết ta đặt lên bàn thờ cúng
Cũng là xương thịt của bùn tanh!
Như nhân dân
Gian truân, thầm lặng, vô danh
Đã sinh ra vĩ nhân, anh hùng, nghệ sĩ...
Tôi còn nhớ rõ là ở ba câu sau cùng của đoạn này, “Như nhân dân / Gian truân, thầm lặng, vô danh / Đã sinh ra vĩ nhân, anh hùng, nghệ sĩ...” nhà thơ đọc chậm rãi, nhấn rõ từng từ... mà chúng tôi nghe, cứ ngỡ là ông rút ra từ lồng ngực có trái tim đang dồn dập thở kia cả tinh chất của đời ông, tóc và râu ông xúp xõa thế kia, tay ông giơ lên hạ xuống thế kia... Thơ ông là lời độc thoại của ông với ông, để khẳng định điều ông từng tâm niệm, cũng là sự tranh luận tranh cãi của ông với những ai ai đó trong cuộc đời, thẳng thắn, rõ ràng, không có gì phải ngại ngùng né tránh như phản xạ “bản năng” thường thấy ở một người từng bị tai nạn.

Nghe nói, hồi ở tuổi hai mươi, Phùng Quán bị coi là “kiêu ngạo”, bài thơ Hoa sen này không biết ông làm lúc nào, nếu làm khi ở tuổi 40, 50, lại bảo ông là “kiêu ngạo có hệ thống” chăng? Khi có đi lại với ông ít nhiều, tôi cho là hồi ấy, ông có nét khoa trương ồn ào thì phải. Ồn ào khoa trương thì khác với kiêu ngạo chứ. Người có tài, lại thành công sớm... có trượt sang ồn ào khoa trương, kể cũng nên thông cảm, bao dung. Lại trộm nghĩ thế anh là gì mà thấy người ta viết thế lại bảo người ta “kiêu”? giọng ấy, ý ấy thì chỉ có anh mới nói / viết được ư? Nhà thơ đích thực thì chính là nhân dân và thời đại. Nhân dân biết rõ “thân phận lịch sử” của mình, biết rõ việc mình cần / nên làm, và chấp nhận, như cây cà kia, như cây xương rồng kia, như cây cọ, cây dứa, cây sao sao, cây vạn niên thanh... kia nữa mà, phải không?

Bây giờ thơ ca đương đại Việt ta có nhiều giọng điệu hơn, ý tứ cũng sâu sắc và đủ cung bậc... thì có thể, thơ Phùng Quán và một số người do nhất quán về tư tưởng nghệ thuật, về cái cách phô diễn ý tứ.. nên có người cho là đáng quý, mà có gì hơi cứng? Lại nhớ những năm đầy khí thế chiến thắng ngoại xâm ấy dân mình nghĩ thế, nhà thơ viết thế, những là:
Bạn hỏi.
- Nước Việt thương mến ở phương nào?
Hở mẹ? Hở em? Hở anh? Hở chị?
Họ sẽ đưa tay chỉ thẳng hướng mặt trời
- Bạn hãy vượt qua một vạn con sông, một vạn trái đồi
Thấy một xứ sở giang tay ôm biển lớn
Việt Bắc, Trường Sơn, núi cao, rừng rậm...
Đồng Tháp Mười mỏi cánh cò bay.
Lòng chảo Điện Biên vạn quân thù nát tan ở nơi đây
Đồn lũy hôm qua xanh màu ruộng cấy...
Nước Việt anh em ở đấy!...
với là:
Như công nhân
Tôi quyết đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Vào lũ người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
Chắc ai cũng nghĩ như tôi: Sự thẳng thắn hết mình ở những dòng thơ hào sảng này dẫu hơi cứng, mà vẫn đáng quý trọng biết bao! Tính thời sự của thơ Phùng Quán là một giá trị vậy.
Phùng Quán là đứa con của đời, là đứa con yêu của quê hương. Ông cất lên tiếng thơ đớn đau mãnh liệt của đời sống Việt ta một thời... cứ nhớ nghĩ về ông như vậy, chúng ta thấy yên lòng.

Tôi may mắn còn có dịp phỏng vấn ông về thơ, về chuyện này chuyện nọ. Ông rỉ rả kể, chuyện ông, chuyện những người bị “oan sai” khác nữa, mà như chuyện của ai, thắm thiết những kỷ niệm buồn đau mà không gợn oán hờn. Đấy cũng là cao cả, đấy cũng là một chút trượng phu nơi ông mà chúng tôi học theo.
Cái ý nghĩ lo sợ không có gì để nói, để được “làm bạn” với ông của tôi bị ông phát hiện. Ông bảo: bạn văn nghệ là bạn tri kỷ vong niên vong bần vong chức tước... Nghe ông, đồng ý với ông, mà tuyệt nhiên tôi vẫn không dám buông thả. Tôi còn giữ được bút tích bài trả lời phỏng vấn của ông, không biết đây có phải là bài cuối cùng ông viết theo dạng trực tiếp trò chuyện với bạn yêu thơ không nữa. Thỉnh thoảng tôi lại lấy mấy trang ông viết ra đọc, lại gom tìm được một số ý không thật mới nhưng vẫn hay hay.
Phùng Quán là nhà thơ đảm lược, có tác phẩm thơ giàu năng lượng.
N.A

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG SĨ THIỆNThời bao cấp, ăn còn đói mà thơ lại hay. Sang thời nay ăn thừa thãi thì người ta lại không quan tâm đến thơ, thậm chí quay lưng lại với thơ (lời Bằng Việt).

  • TRẦN THỊ TRƯỜNGBước chân vào cái ngõ 45 Phan Bội Châu gặp mùi bánh trứng nướng thơm phức bao trùm, ngỡ ngàng: “Ông Trần Đình Hiến còn là một chủ lò bánh?”. Nhưng: - Không phải đâu. Khu nhà này hầu hết là mấy anh em ruột chúng tôi sinh sống. Lò bánh này của một chú, còn các người khác mỗi người một nghề. Các em tôi đều chịu khó. Vâng, bây giờ ai chẳng lấy chịu khó làm đầu...

  • Chính Bùi Hiển dẫn lời bạn ông nói rằng văn ông đi từ hướng ngoại đến hướng nội, hàm ý chín dần, mỗi ngày mỗi gần hơn với cốt lõi văn chương. Tôi không thấy như vậy.

  • NGÔ MINHSau hai cuộc hành trình vất vả hơn 2600 cây số đi về Đại hội Nhà văn khu vực miền Trung ở Nha Trang giữa tháng 3, rồi Đại hội Nhà Văn Việt Nam VII, bắt đầu từ 22/4 đến 10 giờ rưỡi đêm 27/4 tôi mới về tới nhà mình ở Huế, ngồi trước máy vi tính viết những dòng  buồn vui lẫn lộn.

  • THANH THẢO                           6 năm nay, kể từ cái đêm thơ nhạc kỷ niệm 40 năm đường 559 do nhà thơ Phạm Tiến Duật dẫn chương trình, trong đêm ấy Tế Hanh vì quá xúc động khi nhớ lại chuyến đi qua Trường Sơn của mình đầu năm 1974, ông đã bị xuất huyết não. 6 năm ấy, không thể có một cuộc phỏng vấn hay “gặp gỡ” nào được thực hiện với Tế Hanh, đơn giản vì ông không nói được. Tôi nghĩ, 6 năm nay, Tế Hanh chỉ còn trò chuyện với dòng sông của mình, dòng sông của đời mình, trong im lặng. Vì thế, những cuộc trò chuyện tôi kể sau đây đều thuộc về thời gian trước khi Tế Hanh lâm trọng bệnh.

  • LTS: Kể từ khi xuất hiện với bạn đọc qua bài bút ký đầu tiên có tên là Gọi nắng và chùm thơ Đời chị trên tạp chí Sông Hương lúc tuổi đời mới hai mươi, gần 10 năm qua, Văn Cầm Hải là một “hiện tượng văn học” của nhiều cuộc tranh luận vì phong cách lập ngôn mới lạ của mình. Bước vào mùa xuân mới, đúng vào ngày sinh nhật 20/1/2005 của mình, Văn Cầm Hải đã chính thức trở thành một trong những nhà văn trẻ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Vốn là người kín tiếng đến mức “lập dị” nhưng nhân dịp xuân vui này, nhà văn Văn Cầm Hải đã “bật mí” nhiều điều, từ A đến Z trong cuộc sống của anh  với Sông Hương.

  • Sáng ngày 24-2-2005 tại trụ sở 26 Lê Lợi - Huế, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức lễ tưởng niệm nhà thơ Huy Cận. Nhiều cơ quan, ban ngành tỉnh, thành phố Huế và anh chị em văn nghệ sĩ đã tới dự. Sông Hương trân trọng giới thiệu “điếu văn” do nhà thơ Võ Quê đọc trong lễ tưởng niệm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Tưởng nhớ nhà thơ Lương An)Năm 1984, sau khi cùng anh chị em văn nghệ đón di hài nhà thơ Vĩnh Mai về Huế, nhà thơ Lương An - người đồng hương, người bạn thơ gần gũi với Vĩnh Mai đã viết bài "Đón anh về lại Huế thơ": Anh về lại Huế hôm nay / Huế đang mưa bỗng tạnh ngày nắng xuân...

  • HỒ SĨ HIỆPBa Kim, tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Thị Cam, sinh năm 1904, người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Ông viết văn rất sớm, nổi tiếng trên văn đàn từ thời "ngũ tứ vận động" (1919) và hoạt động văn học sôi nổi từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, tên tuổi ngang hàng với các nhà văn Mao Thuẫn, Tào Ngu và Lão Xá.

  • TRUNG SƠN(Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất nhà thơ Phùng Quán)I. Hơn mười năm trước - mùa hè 1992, một cuộc “khai quật” ở Huế đã làm chấn động dư luận. Trong lúc đào hố móng xây dựng một căn nhà tại trụ sở Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Thừa Thiên Huế, người ta đã phát hiện một ngôi mộ tập thể gồm 17 bộ hài cốt, một số vũ khí, đạn và 3 kỷ vật còn ghi rõ tên hiệu, đơn vị Vệ quốc đoàn hồi năm 1946.

  • XUÂN TÙNG          Chòi trống im lìm, khách ngẩn ngơ          Bình khô, rượu cạn, điếu chăng tơ          Bao giờ điếu lại reo êm ái          Nhà rộn tiếng cười, ấm giọng thơ...

  • TRẦN THỊ LINH CHIXuất thân gia đình quan lại, học giỏi nhưng lại không chịu theo đuổi đến nơi đến chốn để khoa bảng đề tên, tiến bước công danh hầu nối nghiệp nhà, cha tôi bỏ dở chương trình tú tài sau khi đậu thành chung, làm một công chức kiếm sống qua ngày, dành hết cuộc đời cho văn học. Năng khiếu phê bình của ông đã biểu hiện ngay từ thời còn đi học.

  • PHAN TRUNG THÀNHTháng giêng năm 2003, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đêm thơ Nguyên Tiêu lần thứ I, theo sáng kiến thành lập “Ngày thơ Việt Nam” của Hội Nhà văn Việt Nam.

  • BẢO CƯỜNGLTS: Trên 40 năm ngâm thơ và đệm sáo cho thơ từ ra Bắc, từ trong nước ra nước ngoài, Bảo Cường hiện là một nghệ sỹ lão luyện trong nghề. Bài viết dưới đây, như chính tác giả nói: “Với lòng thiết tha mong mỏi bộ môn ngâm thơ và đệm sáo cho thơ ngày một phát triển, để mọi người và nhất là giới trẻ yêu thơ có cơ hội tìm hiểu đào sâu về hai bộ môn này.”

  • TRẦN NINH HỒLTS: Trần Ninh Hồ tên thật là Trần Hữu Hỷ. Lính Đông Bộ 1971 - 1976, 1977 - Trưởng ban Văn thơ báo Văn Nghệ. Nguyên chủ nhiệm Bảo tàng Văn học Việt …Bình quân cứ độ dăm năm, nhà thơ Trần Ninh Hồ lại có một "đợt" xuất bản thơ. Anh là cây bút sung sức trong suốt mấy thập niên vừa qua của nền thơ hiện đại Việt Nam, từ cuộc chiến tranh chống Mỹ cho suốt đến những ngày hôm nay...Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã có cuộc trao đổi với nhà thơ Trần Ninh Hồ trong một cách nhìn riêng biệt.

  • INRASARACác hội thảo bàn về nâng cao tính chuyên nghiệp trong sáng tạo văn học đã lôi kéo không ít nhà văn tham gia bàn cãi sôi nổi. Là tín hiệu đáng mừng: văn học Việt đang tự ý thức, tự phản tỉnh (self consciousness).

  • TRẦN ĐÌNH SỬThực tế nghèo nàn về thành tựu khoa học xã hội và nhân văn của chúng ta có thể tìm thấy nguyên nhân trong lối tư duy độc tôn một thời ở lĩnh vực học thuật. Cội nguồn sâu xa của lối tư duy ấy đang nằm trong di chứng của thời kì chiến tranh kéo dài ba mươi năm và cuộc đấu tranh ý thức hệ tàn khốc.

  • NGUYỄN THANH MỪNGKhái niệm nhà văn làm báo chắc không phải là chuyện lạ, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Cánh cửa mở ra cho nhà văn tung hoành trên “sân cỏ” báo chí không đơn thuần là chuyện “cơm áo không đùa...” mà vì nơi đây, nhà văn thể hiện mình ở nhiều góc độ khác nhau, hiểu từ hai phía, nhu cầu biểu lộ tâm trạng của họ và nhu cầu của đời sống đất nước và nhân dân đòi hỏi ở họ.

  • TRƯỜNG NHÂNLTS: Cũng như cuộc đời, văn nghệ có biết bao buồn vui. Nhà văn cũng là người, cho nên có lúc cũng dở khóc dở cười bởi những chuyện ngoài văn chương. “Vạch túi cho người xem... bia” là câu chuyện hậu kì để bạn đọc chia sẻ với chuyện bếp núc làng văn.

  • THANH THẢOLTS: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã về Huế. Có thể nói đấy là một sự kiện - một sự kiện trang nghiêm lặng lẽ.Là người có căn lành, cuộc trở về của ông dường như mãn vẹn. Ông đã trở về với nơi xuất phát, trở về với “ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, trở về với tư cách một công dân thi sĩ.Sông Hương có nhã ý “cập nhật” ông từ đầu nhưng qua dò ướm, biết ông chưa muốn, Sông Hương đành để các báo bạn “post” trước.Mặc dầu “truy cập” sau nhưng Sông Hương với ông, với người Tổng Biên tập đầu tiên - Tổng Biên tập sáng lập hẳn còn nhiều duyên nợ, dài dài...