Người coi đèn biển

15:23 15/06/2009
PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

Vậy mà hằng năm, ngọn hải đăng Batum vẫn cháy nhưng ít ai biết được cuộc sống của người coi đèn biển Xtavraki. Hơn nữa, từ trong thành phố rất khó nhìn thấy ngọn lửa đèn.

Xtavraki rất am hiểu đèn biển. Ông là người đầu tiên mang đến Ban biên tập báo Hải Đăng 1 bài báo (trong đó kể về những loại đèn biển mới nào đó).

Ông ra ngồi nửa tiếng rồi đi, để lại cho toàn thể chúng tôi - Baben, Uliamxki và tôi - ấn tượng về một con người khó chịu, trâng tráo. Đám râu bạc trắng, cứng tua tủa ở hai bên má vàng nghệ, cặp mắt sưng mọng, nói lên rằng, ông ta đã uống khá nhiều rượu Vốtka những ngày gần đây.

Quần áo ông ta vừa cẩu thả vừa nhàu nát, dường như suốt ngày đêm lăn lộn với nó trên giường mà không chịu cởi.

Xtavraki hay ho sù sụ, sặc mùi thuốc lá khét lẹt. Cùng lúc đó, từ trên cặp má râu lún phún, từ từ lăn xuống mấy giọt nước mắt.

Xtavraki không thích Baben và cũng không thích cặp mắt sắc của anh ấy. Có lần ông ta hậm hực nói với tôi:

- Hắn nhìn gì tôi, cái gã đeo kính này! Tôi ghét con người soi mói ấy. Lùng sục tâm hồn người khác. Tôi có gì trong đầu, chẳng ma nào biết được. Và hắn cũng đừng hòng biết. Tôi là người cho vay nặng lãi hay là thằng móc túi già? Hay kẻ giết người?

Trong một lần khác, ông ta nói:

- Để trở thành một người trông coi đèn biển, cần thiết phải quên sạch quá khứ. Khi đó anh sẽ luôn để ý đến ngọn lửa trên đèn.

- Có khi nào đèn biển tắt không? - Tôi hỏi.

- Chỉ xảy ra khi người bảo vệ đèn chết - Xtavraki cười mỉa - Hoặc là anh ta đã phát điên. Thêm nữa, chỉ trong trường hợp anh là nguồn duy nhất trên hải đăng. Không có ai để thay thế, hoặc là vợ hoặc con gái.

- À, ông có gia đình chưa nhỉ? - Tôi hỏi và ngay lập tức, cảm giác mình đã làm một việc khiếm nhã, khó hiểu, thậm chí cho cả ngay chính bản thân. Xtavraki trả lời thô lỗ và cáu kỉnh:

- Anh bạn trẻ ạ, nếu mà anh muốn giữ được quan hệ tốt với mọi người thì đừng nên động chạm vào những công việc khác. Hay kiếm lấy tờ giấy và ghi vào đấy tất cả đề tài không dẫn đến chuyện đụng chạm, loại đề tài thường bắt nguồn từ tính tò mò vô tích sự.

- Sự thô lỗ không đem lại vinh quang cho ông đâu, Xtavraki ạ - Tôi trả lời.

Xtavraki rút từ túi áo thuỷ thủ một lọ nước hoa "Ôđờcôlôn" * dèn dẹt và uống mấy ngụm, sau đó ông nheo nheo mắt nhìn tôi.

Vài ngày sau tôi có dịp quay lại Batum bằng tàu thuỷ.

Trời đã về chiều. Biển chuyển sang mờ mịt mù sương. Dường như động cơ con tàu đang gõ một cách hoảng hốt trên vùng vực sâu yên tĩnh.

Ngọn đèn biển treo thấp là là trên sa mạc nước hoang vắng. Ở đấy, dường như nó là nơi nương tựa cuối cùng của con người.

Thấp thoáng ánh lửa yếu ớt từ trong các ô cửa sổ. Trên đầu nó sáng loà lửa hải đăng cháy rừng rực, ngạo nghễ và hung dữ giống như lời thách thức được ném ra đối với thế lực hoang sơ, nguyên thuỷ của bóng tối.

Tôi chợt nhớ Xtavraki. Ông ta đang suy nghĩ gì khi ngồi trông ngọn đèn biển: hồi tưởng lại tuổi trẻ, quá khứ giống như những bông hoa đồng nội đã héo quắt lại hoặc lần đọc cuốn sách nào đó, tìm thấy niềm an ủi trong cuộc đời không gặp may của mình.

Tôi, một lần nữa, thương ông già. Nhưng sáng hôm sau, lòng thương đó bị đặt dấu chấm hết một cách bất ngờ và khủng khiép.

Thì ra người trông đèn biển Batum Xtavraki chính là trung uý Xtavraki của Hạm đội Biển Đen vào tháng 3-1996 đã thực hiện hành quyết trung uý Xmit trên hòn đảo Berezanhi.

Chính cái đêm tôi ở trên tàu đi qua gần đèn biển, Xtavraki đã bị bắt và đưa ra trước toà án binh.

Bị thúc bách bởi một nhu cầu nội tâm nào đó và cảm giác ghê tởm, tôi lấy tất cả các bài báo của Xtavraki ở nơi ban biên tập và đốt nó đi. Đáng lẽ, nếu có thể, tôi đốt luôn cả bàn tay đã đưa ra nắm tay Xtavraki. Tôi vứt luôn cả cái ghế gỗ cũ, có chân bằng gang mà Xtavraki đã từng ngồi ra khỏi phòng làm việc và thay vào đó dăm cái ghế mới.

Tôi không biết ai là nhà văn, ai là người am hiểu vĩ đại của tâm hồn con người, có thể mô tả được tâm địa đen tối của Xtavraki, theo dõi được con đường quanh co của sự đê hèn trong đầu và trong tim hắn, có thể Bandắc hay Đôtxtôiepxki?

"Không, tôi nghĩ - không thể ngủ - Tôi ngột ngạt từng đêm vì trong căn phòng này, cách đây không lâu, con người đó từng ngồi. Bóng đêm của tôi từ đó đến nay dường như bị thấm đẫm hơi thở chua loét của kẻ nghiện rượu và thuốc. Không, không phải là Đôtxtôiepxki. Lẽ ra, tôi có thể viết về hắn nhưng không bao giờ muốn. Không bao giờ! Vì rằng sự nhân hậu đã có thể vĩnh viễn tắt ngấm trong trái tim kiệt sức bởi va đập với cuộc đời của Xtavraki.

Cuộc sống này đậm đặc sự phản bội đen đúa. Sự phản bội lớn lên vì rặt những điều vặt vãnh tầm phào: mong muốn thêm một ngôi sao trên ve áo, được trở nên đẹp đẽ hơn trước phụ nữ, từ nỗi sợ hãi kiểu nô lệ trước mọi chính quyền - sợ từ người quét sân đến ông hoàng đế - khát vọng sống giàu có, vô tâm, không phải suy nghĩ gì cả, liếm mút cuộc sống keo kiệt như mỏ con chim đa đa, và thay thế tình yêu bằng sự cưỡng bức những cô người ở nết na. Nếu như khát vọng đã thoả mãn, tất nhiên không có gì nguy hiểm hơn nữa.

Xtavraki tốt nghiệp Học viện Hải quân cùng Xmit. Suốt những năm tháng ở trong trường, họ cùng ngồi một bàn và tất cả những năm học này, Xtavraki bị dày vò bởi nỗi ghen tị với Xmit.

Hắn ghen tị về lòng hào hiệp, sự dũng cảm xả thân vì bạn. Hắn ghen tị với bạn như ghen với chính vị anh hùng tương lai, quan chấp chính hay là nhà lãnh tụ.

Hắn hiểu rằng Xmit có thể làm được điều đó và với những tư chất như thế, một khi cuộc đời cho cơ hội, Xmit sẽ đạt vinh quang bất tận.

Trong thời gian này, Macxim Goocki đã từng nói những câu nổi tiếng về một loài người vô tri vô giác nó giống như một loài sâu bọ.

Xtavraki căm ghét Goocki vì ông dường như trong một ánh chớp rực đã nhìn thấu tới tâm can đen tối của hắn.

Khi Xtavraki và Xmit ra chia tay nhau sau lễ tốt nghiệp, Xmit nói với hắn:

- Misa, trong tâm hồn cậu không có cốt lõi.

- Không, có đấy- Xtavraki giận dữ - Còn cậu giở cái trò gì ra đấy: Bò vào tâm hồn người khác?

- Nếu có lỗi - Xmit nói và chăm chú nhìn Xtavraki - thì nó không bằng sắt mà bằng cao su. Đừng có rơi vào chuyện xấu xa nhé.

- Công việc của tôi - Xtavraki bị kích động trả lời - là trong bất kỳ trường hợp nào cũng không lấy một con điếm làm vợ. Để cứu cô ta và cùng tuôn hàng đống nước mắt vì quá khứ buồn giống như cậu đang chuẩn bị làm.

- Đủ rồi - Xmit nổi cáu trả lời - Mỗi người một con đường. Tôi chỉ có thể cầu Chúa cho con đường của chúng ta không gặp nhau.

Và như vậy, họ chia tay nhau để gặp nhau trên đảo Beređanhi trong cái ngày nổ súng.

Không hiểu ở đâu, một thứ bình minh lạnh lẽo, nhăn nhúm tuôn ra trên miền xa xăm thảo nguyên. Từ thuyền, người ta đưa Xmit và những người lính thuỷ lên bờ, tới chỗ có hàng cột chôn xuống đất.

Chỉ huy bắn là Trung uý Xtavraki. Khi Xmit đi qua hắn, Xtavraki quì gối và nói:

- Hãy tha thứ cho tôi, Pêchia, nếu có thể...

- Đứng lên, Misa, đừng chùn tay - Xmit nói - thôi cái trò õng ẹo đi. Tốt nhất, cậu hãy nói với những người của cậu để họ ngắm chính xác hơn.

Cái gì đã ở trong tâm hồn Xtavraki? Rõ ràng là không có cái gì ngoài mong muốn nhanh chóng tách khỏi Xmit, tách khỏi lời quở trách. Nhưng chính từ giờ phút này trở đi, Xmit đã bắt đầu làm phiền cuộc đời của Xtavraki, còn anh cảm thấy mình kiên định, thành công.

Xtavraki đứng dậy, vội vã phủi bụi ở quần và kết thúc cuộc xử bắn thật nhanh cho xong việc, cố gắng không nhìn Xmit đang đứng chắn trước các thuỷ thủ.

Một ý nghĩ hoàn toàn không cần thiết và đểu cáng cứ ám ảnh hắn cho tới tận lúc Xmit chưa ngã úp sấp mặt xuống đất, liệu Xmit có biết hắn là sĩ quan duy nhất của Hạm đội Biển Đen tình nguyện đồng ý bắn anh ta? Tất cả sĩ quan, ngay cả những người theo chủ nghĩa quân chủ cực đoan nhất, đều dứt khoát từ chối công việc này.

Nhanh chóng, Xtavraki nhận thấy các đồng nghiệp bằng mọi cách, cố gắng tránh chạm vào tay hắn.

Từ đó trở đi, hắn chịu khó làm việc và sống thu mình, kín đáo. Lẩn tránh mọi người, chờ đến trước ngày bùng nổ Cách mạng, chạy ra Xêvaxtôpôn và ở đây hắn bắt đầu cuộc đời người coi đèn biển Batum.

Xtavraki ở lại đó cho đến khi chính quyền Xôviết thắng lợi hoàn toàn.

Vụ án Xtavraki có một điều khá đặc biệt: Không ai hiểu tại sao hắn vẫn giữ cái tên thật cho tới khi bị bắt. Tại sao hắn không đổi tên ngay sau khi Cách mạng thành công? Khi người thẩm phán hỏi Xtavraki chuyện này, hắn trả lời:

- Dưới bất kì cái tên nào, người ta cũng có thể tìm được tôi thôi. Càng sớm càng tốt. Họ tìm tôi hơi chậm đấy.

- Nghĩa là anh mong muốn bị bắt?

- Đó không phải là việc của ông - Xtavraki trả lời.

Hắn được lấy khẩu cung khá đầy đủ - lời nói cuối cùng của Xtavraki ngắn và làm kinh ngạc mọi người trong phiên toà:

- Tóm lại - Hắn nói giọng khô lạnh với hơi thở dài nhẹ nhõm - Lạy Chúa, cuối cùng đã kết thúc cái việc quá ư chậm chạp. Một cái chết xứng đáng cho con chó.

Quan toà, thậm chí, rùng mình nhìn hắn trừng trừng. Hắn đứng, mắt cụp xuống, tay giữ những sợi chỉ từ ống tay rách của chiếc áo thuỷ thủ. Và không nói thêm một lời nào nữa.

NGUYỄN THIÊN VIỆT (dịch)
(177/11-03)

-----------------
*Những người nghiện rượu nặng ở Nga thường uống nước hoa thay rượu vì có độ cồn nặng.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.

  • LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.

  • L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.

  • Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.

  • William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.

  • LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.

  • LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.

  • Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.

  • LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...

  • L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.

  • L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.

  • LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.

  • LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.

  • PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.

  • A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.

  • An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.

  • VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.

  • Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.

  • K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.

  • LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.