Ngôi nhà dài, nơi nối kết và hội tụ nghĩa gia tộc của người Taôih

16:24 28/08/2008
TRẦN HOÀNGDân tộc Taôih ở Thừa Thiên Huế thường quây quần sống với nhau thành từng vel (làng, bản). Mỗi vel, thuở xưa có trên dưới vài ba chục nóc nhà (dung). Cũng như làng của dân tộc Kinh, vel của người Taôih chứa đựng nhiều mối quan hệ xã hội như: gia đình - gia tộc, láng giềng, chòm xóm... Mỗi vel thường có một cái tên riêng, hoặc mang tên nguồn nước, khe suối, đồi núi nơi dân vel cư trú, hoặc khởi nguyên từ những trang huyền thoại, huyền tích của bộ tộc từ thuở xa xưa.

Vào các vel của đồng bào Taôih, ta thấy có hai loại nhà, một loại nhà của từng hộ riêng lẻ, một loại của cả một gia tộc, và do vậy mà cấu trúc của hai loại nhà này cũng có những nét khác nhau.
Những người có quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống trong một dòng họ lớn (Yăq), nếu sống với nhau trong một ngôi nhà - thì ngôi nhà ấy là ngôi nhà dài, một kiểu nhà đặc biệt chỉ có ở miền núi Trường Sơn - Tây Nguyên. Sau khi đã gieo lúa xong trên rẫy, vào thời kỳ nông nhàn - từ tháng 6 đến tháng 9, đồng bào Taôih thường lo việc làm nhà để đến lúc vào vụ gặt là có thể đón được lúa mới về. Họ xem hai việc nhà mới, lúa mới cùng đến được một lúc là một niềm vui, niềm hạnh phúc lớn đối với các gia đình, gia tộc.
Nhà dài gồm nhiều gian nối với nhau và kéo dài tới chục mét; đặc biệt có nhà dài trên dưới một trăm mét (Độ dài của nhà tuỳ thuộc vào quy mô và số bếp, số người trong gia tộc). Sàn, cột, xà nhà làm bằng các loại gỗ quý như gõ, sến, dổi... Chúng được đẽo đục công phu và liên kết với nhau theo kỹ thuật riêng của người thợ mộc Taôih. Để chống ẩm, chống mối mọt, người ta kê cột lên các tảng đá dày to và vuông vức. Ngôi nhà cũng nhờ vậy mà thêm vững chãi, chắc chắn, bề thế.
Vách nhà cũng được làm bằng các tấm gỗ mỏng đã bào nhẵn. Trên vách, các ông thợ thường chạm khắc nhiều hình thù như hoa lá, chim muông... để làm vật trang trí. Đáng lưu ý là lá lợp nhà. Thường người Taôih dùng lá mây rừng để lợp nhà dài. Loại lá mây có độ bền hơn tranh rạ, và lại mang tính thẩm mỹ cao. Người ta vào rừng chọn các phiến lá không già quá mà cũng không non quá, cắt lấy và đem về phơi héo, rồi ép cho phẳng theo từng lớp. Khi lợp, các lớp lá mây được nối kết với nhau bằng các sợi mây nhỏ chuốt nhẵn. Từng lớp lá được lợp chồng lên nhau theo một thứ tự nhất định, rất kỹ thuật đã tạo nên các mái nhà vừa phẳng phiu, vừa đẹp mắt. Nếu như mái nhà rông của người Bana, Êđê... thường cao và dốc đứng, thì mái nhà dài của người Taôih lại nghiêng với độ nghiêng vừa phải và trải rộng về bề ngang. Đầu hồi nhà người ta thường gắn khúc gỗ cong như chiếc sừng trâu chĩa thẳng lên trời. Vật này được xem như vật thiêng bảo trợ và mang đến cho gia đình - gia tộc cuộc sống bình an, no ấm...
Nhà dài được phân nhiều gian khác nhau, có gian dùng làm phòng khách hoặc hội họp, vui chơi; có gian được dùng làm bếp, làm phòng ngủ, gian sinh hoạt của từng gia đình nhỏ (bếp). Phòng khách nằm ở gian giữa nhà và rộng hơn các gian khác nhiều. Các đồ thờ cúng, cồng chiêng... được đặt gian này. Ngoài ra, nơi đây còn trưng bày các loại cung tên, sừng thú, da thú v.v... Vào các ngày vui của gia tộc, mọi người cùng quây quần nơi gian khách để trò chuyện, hò hát rất say sưa, ấm cúng... Các con lớn của các bếp cũng thường tới ngủ ở gian khách.
Nối kết giữa các gian nhà là một giải hành lang dài bên ngoài và ba cầu thang được bố trí ở ba nơi: hai ở đầu hồi và một dẫn vào gian chính. Do vậy mà việc đi lại, vào ra rất thông suốt và tiện lợi. Bên cạnh loại nhà dài có hành lang bên ngoài, còn có loại nhà lối đi lại được bố trí giữa lòng nhà. Nhà kiểu này, giữa các gian (các bếp) không có vách ngăn. Các đôi vợ chồng trẻ được bố trí ở trong các phòng lồi có phên tre che kín. Đây cũng là phòng cất giữ của cải của mỗi bếp riêng biệt.
Thuở xưa, các thành viên trong gia tộc người Taôih sống trong các nhà dài thường tồn tại dưới ba dạng:
- Ở chung- làm chung- ăn chung (dạng cổ nhất)- đối với các gia tộc ít người, ít hộ
- Ở chung- làm chung- ăn riêng
- Ở chung- làm riêng- ăn riêng
Dù là thuộc dạng nào, người cùng cư trú dưới một mái nhà vẫn luôn giữ mối quan hệ tốt đẹp, bền chặt, ứng xử với nhau bằng tình yêu thương sâu sắc và sống có nề nếp, kỷ cương. Mọi sự bất hoà giữa người này với người khác, giữa bếp này với bếp khác đều được giải quyết ổn thoả, êm thấm. Phong tục, lễ nghi của bộ tộc, của gia tộc được giữ gìn, phát huy. Lương thực, thực phẩm (gạo, ngô, rau quả, thịt cá...) là do công sức của cả gia tộc làm ra. Nó được phân chia rất công bằng cho từng bếp. Mỗi bếp tự nấu nướng, vợ chồng con cái ăn riêng với nhau, trừ lúc cả gia tộc có việc chung như lễ tết, cưới hỏi, ma chay... Cha mẹ già thì sống với con trưởng, song các bếp và mọi thành viên của gia tộc đều có trách nhiệm chăm nom săn sóc, nuôi dưỡng người đã sinh thành ra mình.
Ngày nay kinh tế hộ gia đình đã phát triển đến trình độ cao. Các bếp tách riêng thành các hộ cá thể với ngôi nhà riêng của mình. Những ngôi nhà dài ngót trăm mét không còn nữa. Song nó mãi mãi vẫn là biểu tượng là thành tựu văn hoá đặc sắc và là sự thể hiện cao tính cộng đồng của dân tộc Taôih trên núi rừng Trường Sơn hùng vĩ.
T.H

(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN VĂN DŨNG

    Huế trong thời kỳ Pháp thuộc đã được quy hoạch, xây dựng một cách bài bản và khoa học. Đặc biệt, nhiều công trình kiến trúc Pháp được xây dựng với sự đa dạng, phong phú về phong cách kiến trúc tạo nên một quỹ di sản kiến trúc có giá trị ở Huế.

  • TS. KTS. NGUYỄN NGỌC TÙNG - ThS. KTS. NGUYỄN THỊ MINH XUÂN - TS. KTS. LÊ NGỌC VÂN ANH

    Khi nhắc đến Huế, hầu hết chúng ta thường nghĩ đến mảnh đất Thần kinh với sự hiện hữu của kiến trúc Kinh thành, Lăng tẩm và cung điện của triều đại nhà Nguyễn cùng với kiến trúc nhà vườn Huế, cảnh quan danh thắng dọc bờ sông Hương.

  • PHAN THUẬN AN

    Cũng như tại hầu hết các thành phố khác ở ba nước Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française), tại Kinh đô Huế, chính quyền thực dân ngày xưa đã thiết lập một khu phố mới theo lối kiến trúc châu Âu, thường được gọi là “Khu phố Tây” (Quartier Européen). Đây là một loại hình di sản kiến trúc ở Cố đô Huế ngày nay(1).

  • NGUYỄN XUÂN ĐỊNH

    Nói đến kiến trúc Huế, dù chỉ một vài đặc điểm (sơ qua), không thể không đề cập đến những người ở Huế. Cho dù những người đó sinh ra ở Huế, hoặc ở xa đến, nhưng đều góp phần xây dựng nên một Huế có hơn ba trăm năm lịch sử.

  • Ngày 1/6, tin từ Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cho biết di tích Phu Văn Lâu đã được sửa chữa về nguyên trạng ban đầu, và còn được tăng cường, gia cố tất cả vị trí xung yếu cho công trình.

  • Mức độ độc đáo của mô hình Kinh thành Huế, chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền... chắc chắn sẽ khiến bạn ngỡ ngàng.

  • Ứng Lăng - lăng Khải Định với những nét pha kiến trúc Tây Phương đã đem lại vẻ mới, lạ, độc đáo, được đánh giá có phần phô trương so với các công trình kiến trúc truyền thống của Việt Nam. 

  • Tại Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại nội Huế), sau một thời gian nghiên cứu phục dựng, mô hình nghiên cứu Điện Cần Chánh tỷ lệ 1:10 đã hoàn thiện và vừa đưa ra trưng bày.

  • Đàn Nam Giao triều Nguyễn là đàn tế duy nhất còn hiện hữu ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế.

  • Sau khi xây Văn Miếu tại kinh đô Huế vào năm Gia Long thứ 9 (1808), các tỉnh trong khắp đất nước lần lượt xây dựng Văn Miếu tại địa phương. 

  • Cổng tam quan được xem là bộ mặt của một ngôi chùa, bởi tam quan là cổng chính của tự viện. Chư Tăng, tín đồ và du khách ra vào tự viện đều phải qua cổng tam quan này. Do vậy cổng tam quan có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến đời sống tâm linh của các hành giả trong chùa và khách thập phương tín thí đến chùa lễ Phật.

  • QUÁCH TẤN

    Trên tờ Tạp chí Sông Hương (Phụ trương Đặc biệt 2) ra tháng 12-1985 có đăng bài của ông Phan Thuận An nói về Cầu Trường Tiền.

  • PHAN THUẬN ANTrong quá trình hình thành và phát triển đô thị Huế gần 700 năm nay, đô thị này đã trải qua nhiều đợt qui hoạch. Trong đó, đợt qui hoạch vào đầu thế kỷ XIX khi triều Nguyễn xây dựng Kinh đô là đợt qui hoạch qui mô và có giá trị bền vững nhất.

  • NGUYỄN VĂN HOAVì có thú chơi sách và đi du lịch nên tôi có thú vui sưu tầm sách. Nhờ vậy mà trong tủ sách cá nhân của tôi đã có trên 100 đầu sách về Huế, nhất là của tác giả sinh sống ở Huế, ví dụ cuốn Thần kinh Nhị thập cảnh, thơ vua Thiệu Trị,  do Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung biên soạn, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Nhà xuất bản Thuận Hoá xuất bản, Huế, 1997. Rất may mắn tháng 5 năm 2003, tôi lại có trong tay cuốn Kinh thành Huế của Phan Thuận An (từ dưới xin viết tắt PTA).

  • TRẦN TUẤN ANHNằm cách trung tâm thành phố Huế 5km về phía Bắc, toạ lạc bên bờ sông Hương ở vị trí Bao Vinh, một thương cảng nổi tiếng của Huế ngày xưa, những ngôi nhà cổ Tứ Giác(1) tại đây được xem như một trong những kiến trúc thuộc địa Pháp khá nổi bật ở Huế. Sự nổi bật thể hiện qua các đặc trưng kiến trúc mang đậm nét Huế, hoà quyện với phong cách kiến trúc Pháp du nhập vào Huế những năm đầu thế kỷ 20.

  • THÁI DOÃN LONGKiến trúc luôn luôn được hình thành phát triển và gắn bó với sự tiến hoá của văn hoá xã hội và lịch sử, bản thân từng công trình và tổng thể toàn đô thị đều ghi dấu thời đại và xã hội nào sinh ra nó.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGHuế là một đô thị hình thành không từ xuất phát điểm hay bối cảnh của một trung tâm có quá trình hội tụ thương nghiệp, trao đổi hàng hoá hay giao dịch thương mãi, mà góp một nét rất riêng trong chân dung đô thị Việt Nam từ nhu cầu xây dựng khu trung tâm chính trị, hành chính quốc gia trong giai đoạn lịch sử đầy biến động và phức tạp.

  • PHAN THUẬN ANQuá trình hình thành và phát triển của đô thị Huế thường được chia ra làm 3 thời kỳ với 3 hình thái và phong cách kiến trúc khác nhau: phố cổ, phố cũ và phố mới. Từ "phố cũ" dùng để chỉ khu phố Tây được xây dựng dưới thời Pháp thuộc (1875-1954) ở bờ nam sông Hương. Cung An Định ra đời vào thời kỳ lịch sử ấy.