HƯƠNG CẦN
Vài năm lại đây, báo chí thường nhắc đến ông hai lúa Bùi Hiển (Thủ Dầu Một, Bình Dương) tự chế thành công chiếc máy bay trực thăng vào năm 2012, ông làm chiếc thứ hai vào năm 2014.
Mẫu máy bay của ông Henry Mignet
Ông Lê Văn Thỏa (SN 1965, trú ở thị trấn Quỳ Hợp, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An) được nhiều người biết đến vì chế tạo máy bay từ những vật liệu “đồng nát” vào năm 2015…
Thế nhưng rất ít người biết rằng từ năm 1935, Việt Nam đã có ông Hồ Đắc Cung đã tự chế thành công chiếc máy bay. Diễn biến của hành trình chế tạo này có nhiều chuyện rất thú vị.
![]() |
Bản tin trên Tràng An Báo ngày 3/5/1935 |
“Tràng An Báo”, một tờ báo quốc ngữ xuất bản ở Huế, đã theo rất sát sự kiện này. Trước hết, trên số 19 (3/5/1935), Tràng An Báo đưa tin “Ông Hồ Đắc Cung tự chế ra một chiếc máy bay”, nội dung bản tin như sau: “Ông Hồ Đắc Cung trước học ở trường Nguyễn Phan Long trong Saigon, sau qua Pháp học ở Montpellier tại trường Kỹ nghệ điện học, làm việc ở Marseille hai năm trước rồi mới trở về nước.
Từ 6 năm nay ông Cung giúp hãng chữa xe ô tô của ông Didier ở Saigon. Ngoài nghề chữa xe ô tô ông thích nhất nghề máy bay. Gần đây ông đi xem chớp bóng thấy ông Mignet chế ra được thứ máy bay nhỏ kêu là “rận trời” (pon du ciel), ông Cung liền phỏng theo kiểu đó mà làm một thứ máy bay mới. Hiện nay con “rận trời” của ông đã thành hình, chỉ còn thiếu bánh xe và động cơ nữa là có thể bay được. Những thứ ấy ông đã gửi mua ở bên Pháp. Cái động cơ 25 mã lực đó đáng giá 500$, cả tiền tàu chở về cũng tới 600 $. Khi có động cơ và bánh xe rồi, chỉ trong 15 ngày là ông Cung khởi sự thí nghiệm cuộc phi hành”.
Do số tiền quá lớn, ông Hồ Đắc Cung đã bạo gan gửi thư cho vua Bảo Đại để xin hỗ trợ. Tràng An Báo số 25 (24/5/1935) cho biết: “Thơ gửi đi, ông Hồ Đắc Cung có cảm tưởng nó sẽ bị vò và liệng xuống sọt. Nhưng mới đây ông được tin nhà băng Đông pháp ở Saigon đòi ông. Ngạc nhiên ông tới ngay, một tờ giấy nhỏ với mấy dòng chữ đơn sơ báo cho ông biết rằng thơ ông dâng lên Hoàng đế đã được ngài để ý đến: “Lệnh đức Hoàng đế Bảo Đại ban cho ông thợ máy Hồ Đắc Cung số tiền 300 bạc”. Xiết bao mừng rỡ, sau khi lãnh số tiền kếch xù ấy ông liền gởi ngay sang Pháp giục gởi máy thiệt mau. Khi nào được máy, ông Hồ Đắc Cung sẽ bay tới Huế để cảm ơn đức Hoàng đế”.
Vài tháng sau, Tràng An Báo số 68 (22/10/1935) đưa tin: “Chiếc máy bay của ông Hồ Đắc Cung sắp cất cánh”. Nội dung tin như sau: “Có một dạo người ta nói đến chiếc máy bay tí hon của ông Hồ Đắc Cung ở Saigon nhiều lắm. Thế rồi người ta im. Vì chiếc máy bay vẫn nằm trơ ra đó chờ bộ máy mua ở Tây qua. Bộ máy qua khí chậm một tí. Nhưng nay máy đã qua rồi và đã lắp xong rồi. Nay mai ông Cung sẽ cỡi máy bay thử. Ông Cung tỏ ra cách không tin ở sự thành công cho lắm”.
Nhưng cuối cùng máy bay của ông Cung chế tạo đã bay được. Tràng An Báo số 75 (15/11/1935) đưa tin: “Có tin ở Saigon ra nói rằng chiếc máy bay nhỏ kêu bằng con “rận trời” của ông Hồ Đắc Cung đã do ông cầm máy bay lên tại sân Tân Sơn Nhất trong một buổi trưa mới đây. Máy lên rất cao, khi lên khi xuống đều như ý. Cũng đã trải qua mấy lần sửa chữa mới được vậy. Lần đầu hết ông Cung đem thử tại sân Tân Sơn Nhất, chân vịt quay mà cất cánh không lên vì sợi dây buộc cánh lúc lắc. Lần giữa vào ngày 26 Octobre, máy bay lên được, nhưng đương cao bỗng thình lình chúi đầu xuống làm ông Cung suýt nguy. Lần thứ ba mới bay được hoàn toàn. Nghe chừng ông sẽ bay ra Huế”.
Không biết sau đó ông Hồ Đắc Cung có bay ra Huế hay không, nhưng chỉ việc ông Cung thời điểm đó tự chế thành công máy bay là đã hết sức đáng kính nể lắm rồi.
Cũng thời điểm giữa năm 1935, tờ Hà Thành Ngọ Báo số 2336, (27/6/1935) có bài viết thông tin: ông Raymond Girardot - nhà kỹ nghệ người Pháp cũng đang tiến hành chế tạo chiếc máy bay theo kiểu “rận trời” như ông Hồ Đắc Cung. Cũng không biết ông Raymond có chế tạo thành công hay không vì chúng tôi không có tư liệu để biết thêm.
H.C
(SHSDB25/06-2017)
Sau khi hoàn tất bản thảo tập thơ Độc Hành thì nhà thơ Hải Bằng cũng “độc hành” về chốn vĩnh hằng vào ngày 7 tháng 7 năm 1998.
CÁT LÂM
Bình đẳng giới, nữ quyền, những vấn đề tưởng như mới mẻ ở nước ta nhưng thực chất vấn đề này đã được luận bàn từ những năm đầu của thế kỷ XX.
NGUYỄN QUANG HÀ
Ghi chép
Trước, và ngay cả khi vừa giải phóng, vào lúc gần tối, nếu có một người khách nào đón đường gọi xe thồ, xe xích lô xin về làng Thế Lại, thì sẽ bị chủ xe lắc đầu ngay. Bởi chủ xe sợ một điều này: có đi mà không có về. Hoặc ít nhất là cũng về hai tay trắng.
NGUYỄN QUANG HÀ
Trong kháng chiến chống Mỹ, huyện Quảng Điền ở mãi dưới sâu, phải mượn địa bàn của xã Phong Sơn huyện Phong Điền làm chiến khu.
NGUYỄN QUANG HÀ
Ngoảnh đi ngoảnh lại, vừa mới đó, vậy mà đã 100 số Sông Hương trình làng.
PHẠM HỮU THU
Ghi chép
Ngót nửa thế kỷ trôi qua, từ những chàng trai, cô gái giờ họ đã là những ông, những bà.
NGUYỄN QUANG HÀ
Hồi ký
NGUYỄN QUANG HÀ
Năm 1947 có hai chiến sĩ được cử về công tác tại chiến khu Ba Lòng. Đó là Trần Quốc Tiến, quê Quảng Trị và Hải Bằng, quê Thừa Thiên.
BẠCH DIỆP
Bút ký
Tôi từng là đứa con nít mê chuyện cổ tích và trò chơi bán đồ hàng. Khi bọn trẻ cùng lứa đánh khăng tập trận, chạy băng vườn cải mụ Tép, vượt rào bứt dưa hấu nhà ông Phường, phá nát ụ rơm cậu Dưỡng, thì tôi vẫn ngồi yên nghe ngoại kể chuyện. Chỉ có trò họp chợ, chơi mua bán với các dì mới rứt tôi ra khỏi ngoại.
NGUYỄN QUANG HÀ
Hồi ký
Mùa mưa 1968 là mùa mưa nghiệt ngã nhất. Sau trận càn lớn chưa từng có lên miền tây Thừa Thiên, địch tiếp tục phong tỏa miền núi bằng biệt kích.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Ghi chép
Từ mùa xuân năm ấy đến nay vừa tròn 30 năm, chẳng phải vì con số tròn ba thập kỷ mà tôi nhắc lại chuyện cũ. Chỉ vì từ mùa xuân năm ấy, cuộc đời tôi có một bước ngoặt mới và nhờ có mùa xuân năm ấy, cuốn sách đầu tay của tôi đã ra đời.
HỒ THANH THOAN
Đã gần 34 năm nay chúng ta không còn nghe đến tên Đoàn kịch nói Bình Trị Thiên nữa, chuyện đã trở về dĩ vãng của một thời vàng son.
CHÂU PHÙ
Thảo Am Nguyễn Khoa Vy (1881 - 1968) sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc ở Huế, tinh thông Nho học và chữ Pháp. Cụ cùng Ưng Bình Thúc Giạ Thị thành lập Hương Bình thi xã và giữ vai trò phó soái của thi xã này.
LỆ HẰNG
Bút ký dự thi
"Bánh lọc em ơi! Bánh mới hấp xong, nóng hổi luôn nì, lấy giùm chị ít chục hí?”
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Mấy năm trước, trong dịp cùng lên thăm vườn An Hiên của bà Nguyễn Đình Chi, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đã giới thiệu cho tôi biết cụ Sa Giang Đào Thái Hanh (thân phụ của bà Nguyễn Đình Chi, tức bà Đào Thị Xuân Yến) có tập thơ "Ái Châu danh thắng" (trong "Mộng Châu thi tập") được các danh nho đương thời đánh giá rất cao.
NGUYỄN QUANG HÀ
Bút ký
BẠCH DIỆP
Bút ký dự thi
Tôi uống chậm, từng ngụm nhỏ.
VIỆT HÙNG
Ký
Tuổi hai mươi tràn trề hoài bão lớn và tuổi hai mươi... Ở thời đại nào cũng được coi là lứa tuổi hồn nhiên trong sáng, ấp ủ bầu nhiệt huyết, khát khao làm được cái gì có ích cho đời.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Ghi chép
Trời bỗng nhiên mưa, những cơn mưa cuối cùng của mùa mưa rét đậm. Với tôi, hình như mưa bao giờ cũng là cánh cửa mở cho những vũ khúc hoài niệm ùa về.
LỆ HẰNG
Bút ký dự thi
“Thấu Huế rồi.”