Một chút màu xanh

09:25 21/03/2008
Anh chị dọn về đây từ hồi mới cưới nhau. Căn phòng xinh xinh, quét vôi xanh nhạt, trang nhã và sạch sẽ.

Một chút màu xanh - Phụ bản Bửu Chỉ

Trên vách, chị treo chiếc gương soi hình trái tim, viền ruy-băng hồng thắt thành nơ - đó là quà kỷ niệm cưới của hai người. Trên đầu tủ đặt chiếc giỏ tre đan, bên trong thường cắm một bó cúc tím nho nhỏ, hoặc hoa bươm bướm vàng. Vào những ngày trọng đại của hai vợ chồng - sinh nhật chị chẳng hạn - anh còn đi kiếm cả hồng nhung, và cái tổ ấm cỏn con như sáng hẳn lên, xinh tươi, ấm cúng.
Bây giờ, chiếc giỏ tre đan vẫn ở đấy. Nhưng những bông hoa không còn. Quanh đây chẳng ai trồng hoa hoét gì, phải đạp xe hai ba cây số mới tìm được một chùm cúc hay tử vi, mà cũng chỉ nửa buổi là tàn ngay trong sức nóng hun đốt của bốn bức vách, dưới nắng trời tháng sáu. Trong tấm ảnh ở đầu giường, chị vẫn mỉm cười duyên dáng với đôi mắt lấp lánh, nhưng lắm lúc từ lớp học trở về, anh gặp vợ ngồi xổm trên nền nhà, mặt dính nhọ, loay hoay sửa bếp dầu. Có hôm chị đội nón, lúi húi thổi cái bếp củi ngoài hiên, nước mắt chị ràn rụa vì khói, và chị gắt lên cả với anh:
- Này, ở đâu mà trưa nửa ngày mới lò dò về đây… chẻ cho người ta ít củi khô nhanh lên!
Anh im, vào nhà, thay áo vội vàng rồi lấy rựa ra sân, lẳng lặng làm nhiệm vụ.
Buổi trưa trôi qua, cơm nóng, canh nóng, căn phòng cũng nóng. Sao trời nắng như đổ lửa thế này nhỉ? Cơm nuốt chẳng muốn trôi. Anh đề nghị:
- Này, mai em làm bún xáo ăn đi. Ăn cơm chán quá.
- Chà! Chị ngắt lời. Anh thì chỉ được cái… ăn cho sướng vào để rồi treo niêu đấy hẳn… Nói phiền lắm!
- Thì anh nói thế, không ưng thì thôi, có gì mà phiền! Anh bực mình, cố dịu giọng.
Chị nghe giọng anh hơi bực bội thì nhận ra ngay lỗi của mình nhưng vẫn không chịu thua:
- Anh bao giờ cũng thế, nhiều chuyện lắm chứ không phải chỉ chuyện này đâu?
- …
Anh định cãi, nhưng rồi lại im lặng.
Chẳng hiểu sao hồi này chị hay cáu gắt thế nhỉ. Anh thấy vợ uể oải, phờ phạc ra. Vì lo lắng cho gia đình, hay vì chưa quen với nơi ở mới? Căn phòng hơi tù túng, thiếu thoáng khí. Lúc nghĩ tới điều đó, anh thương vợ, nhưng khi phải chịu đựng những câu cáu bẳn ngang phè phè của cô anh không thể không nhăn mặt khó chịu, muốn đạp hết cho rảnh. Còn chị, mỗi lần cằn nhằn với chồng xong, chị ngồi yên, mơ hồ thấy buồn: chị thấy mình đâm ra xấu tính, nhăn nhó như bà già, chị ngượng với chồng và … Thật bực mình, chẳng hiểu tại sao.
Đêm đến, trời vẫn nóng hâm hấp. Cái nóng râm ran như còn tích tụ trong từng viên ngói trên mái nhà. Hai vợ chồng xoay lưng vào nhau mà ngủ. Lát sau chị tỉnh giấc, quay lại. Dưới ánh đèn chong, anh nằm ngoẹo đầu, một dòng nước bọt chảy xuống gối. Với tay, chị lấy chiếc khăn ở đầu giường lau nhè nhẹ cho chồng.
Anh cựa mình, ngáp dài ngái ngủ rồi quờ quạng nắm lấy tay vợ. Tay chị nóng hâm hấp như da gà. Bất giác, chị thở dài, bảo chồng:
- Mình phải cố tậu cái quạt máy, anh ạ. Nóng quá chịu không nổi.
Anh “ừ” rồi nửa mê nửa tỉnh, quàng tay lên vai chị. Chị mỉm cười… Đêm yên ắng lạ lùng. Một con thằn lằn ở đâu đó chợt tắc lưỡi trong bóng tối.
Phải có một chiếc quạt, cả hai anh chị đều đồng ý như thế. Còn phải chuẩn bị để lỡ ra thai nghén, sinh đẻ nữa chứ. Đến lúc sinh con, ai mà nằm mãi cả ngày trong cái hộp này nổi.
Quạt chưa có nhưng anh đã kiếm gỗ đóng một cái ghế nhỏ, sơn trắng muốt, để dành cho nó. Từ khi vừa bắn tin, đã có bao nhiêu người giới thiệu quạt cũ muốn bán lại, còn hai vợ chồng thì tích cực để dành tiền và tích cực đi xem. Nhưng hai tháng trôi qua, vẫn chưa kiếm được cái nào vừa ý. Cái thì thực tốt, mới tinh, nõn nà, có lồng bảo hộ, có “tuốc năng” hẳn hoi mới mua từ Nga về, nhưng giá tiền đắt quá. Cái thì vừa giá, lại vừa tươm tất, nhưng phải xài điện 220 mới được, mà ở đây khu tập thể lại dùng điện 110. Quanh đi, quẩn lại, hai anh chị quyết định gửi mua một cái quạt Hà Nội. Có mấy trăm thôi mà vừa gọn, vừa bền, chạy khỏe.
- Phải đấy anh ạ, ta chỉ cần cho không khí nó thoáng một chút. Dùng quạt lớn thì tốt đấy nhưng phung phí cả tiền, mình còn sắm lắm thứ nữa.
Chị bảo anh như thế. Anh cười:
- Thì hẳn thế… Nhưng mua quạt mậu dịch thì chờ mãi cửa hàng mới bán, mà ở nhà thì thêm mỗi ngày là mỗi ngày hết chịu nổi.
- Thì mình cũng đã chịu đựng bao nhiêu ngày rồi, làm cái gì mà như chết đến nơi thế.
Anh cười làm lành:
- Thôi thì tùy cô… Ăn thua ở cô đấy miễn là cô giữ được tiền đến khi người ta bán cho.
- Chà, đừng có lo cho em, lo cho anh đấy. Thuốc lá nhiều vào!
Anh “hừm” một tiếng, nửa cáu, nửa đùa. Anh là tay hút nghiện, hồi trước hôm nào không có thuốc thì nhức đầu, chóng mặt. Từ ngày cưới nhau, chị kèm riết không cho hút, đến khi bắt đầu tích lũy tiền để sắm thứ nọ, thứ kia thì lịnh cấm càng ngặt nghèo hơn. Anh biết ơn vợ đã kiềm chế được mình, nhưng mỗi lần nghe những lời đay đá của cô nàng, anh cứ muốn cãi lại.
Trời càng lúc càng nắng gắt. Hai vợ chồng sống với nhau qua mùa hè dưới mái ngói râm ran. Dường như họ gặp nhau ở đây để ngủ và ăn cơm, còn thì suốt ngày chị chạy về nhà mẹ, anh lên ngồi thư viện. Kiếm một chỗ mát mà làm việc, chứ giam mình ở đây mà chết thiêu à? Thường thường buổi trưa, chị về sớm, nấu cơm, chùi nhà. Ban đầu thì phân công mỗi người phụ trách mỗi ngày; nhưng dần dà do phân công tự nhiên và do sự vụng về của anh, việc hậu cần lại về cả chị. Anh lại có tính đãng trí, hay về trễ. Nhiều hôm chị dọn cơm ăn xong đi nghỉ rồi, anh mới mò về lục bát chén. Những lần như thế, anh lặng lẽ ăn xong, rửa dọn lấy, rồi đến ngồi ở mép giường; biết vợ chỉ vờ ngủ để nén giận, anh chỉ ghé lưng nằm ở mép chiếu, thiếp đi. Khí trời bức bối làm anh mệt nhừ, uể oải.
Cũng có lúc anh đưa tay nắm tay vợ tức thì bị hất ra tàn nhẫn. Nước mắt chị ứa ra, tủi thân:
- Có bữa cơm nhà, anh cũng quên!
- Nào anh cố ý về trễ đâu… Ngồi ở thư viện, đang đọc sách thì thằng Sơn rủ đi uống ly cà phê đá. Ngồi ở câu lạc bộ thể thao, gió thổi mát quá, hứng chí nói đôi ba câu chuyện rồi quên…
- Thì đúng là quên!
Chị vừa nói vừa khóc thút thít, khóc nhỏ nhỏ chứ không dám nấc to vì sợ hai phòng bên nghe tiếng. Thế là mất luôn giấc ngủ trưa… Đến khi ngoài cổng cơ quan đã có tiếng kẻng báo hiệu giờ làm việc, chị uể oải ngáp dài, úp mặt vào ngực anh:
- Anh ạ, em chỉ mong cho xong cái mùa hè chết tiệt này cho rảnh.
- Ừ, thì anh cũng chỉ mong thế!
Rồi mùa hè chết tiệt ấy trôi qua. Mùa đông đến. Trời lạnh, mưa nhiều nhưng dù sao cái rét vẫn dễ chịu cho những cặp vợ chồng mới cưới hơn. Vào khoảng tháng 11, cửa hàng có về một loạt quạt máy, nhưng đúng dịp ấy anh phải về Quy Nhơn thăm ông cụ ốm nặng. Chị phải chuẩn bị tiền cho anh về nhà, thêm nữa trời đang rét thì nhu cầu quạt cũng chưa cấp bách lắm, vay mượn làm gì cho phiền ra.
Mùa xuân. Những con én thỉnh thoảng bay về làm tổ dưới mái ngói đỏ. Rồi hết mùa, chim bay đi. Lại những đêm nóng râm ran, lại tiếng thằn lằn chắt lưỡi trên đầu tường. Lại mỗi lần từ lớp học về, anh gặp vợ quần xắn móng lợn, tóc túm một túm sau gáy, hí hoáy ngồi thổi lửa ngoài sân nắng.
Chiếc ruy băng hồng lồng quanh khung kính trái tim nay đã bị bụi đóng, bẩn quá nên chị rút ra và định thay bằng sợi khác nhưng tất bật những việc gì rồi chị cũng quên đi. Chiếc giỏ tre xinh xinh cũng mốc và gãy nan rồi anh đã cho nó vào bếp. Thời gian qua cái gì chẳng hư, chẳng cũ.
Âu đó cũng là quy luật bình thường!
Chỉ có một vật y nguyên như cũ: chiếc ghế nõn nà ngày nào anh đóng để dành cho chiếc quạt tương lai. Nó vẫn đứng đó trống trải và kiên nhẫn.
Những cơn giận hờn trẻ con đã qua dần. Bây giờ sau mỗi lần gây gổ, chị không còn khóc thút thít rồi áp má xuống lồng ngực nhớp nháp mồ hôi của anh nữa. Chị ra vẻ ta đây, nín thinh, khinh khỉnh. Cái im lặng ngột ngạt như trời trước cơn giông. Chuyện đó cũng trở thành bình thường, bình thường đến nỗi nhiều khi anh cũng không buồn để ý xem chị giận gì.
Câu chuyện chỉ trở thành bất bình thường vào một buổi trưa, khi chị từ hàng thịt trở về với giỏ giò sườn lủng lẳng trước ghi đông. Anh còn lo sửa cái bếp dầu - cái bếp dầu quỷ quái, cứ không chịu bắt lửa cho! Đang loay hoay thì anh nghe vợ la thất thanh:
- Trời ơi, giờ này mà anh còn sửa bếp dầu! Sao không bắc bếp củi cho rồi làm thế này đời nào mới có cơm.
- Thì thong thả nào, muốn củi thì có củi, làm gì mà như chết tới nơi!
- Tôi cũng sắp chết đói đây, anh tưởng sắp hàng từ năm giờ sáng đến giờ này còn khỏe lắm chắc? Biết thế anh đi mua cho rảnh, để tôi nấu nướng cho xong. Cứ giành ở nhà, bây giờ đổ vạ ra đấy!
- Này, vừa vừa chứ, thấy người ta nhịn lại cứ làm tới…
Anh càu nhàu, ngước lên nhìn vợ thấy chị phờ phạc, tóc bơ phờ vì gió, nước da rám nắng, trông thật nản. Chị cũng nhìn anh: dường như trong mắt anh có một thoáng gì gớm ghiếc, bất mãn, đố kỵ; chị nhớ ra là mình đã tàn phai đi so với ngày mới về đây… và chị cay xè hai mắt. Tự nhiên, chị thốt ra những lời cay độc:
- Thôi, không cần! Anh bây giờ còn xem tôi ra gì, để thời giờ, tâm tư mà o bế cô này, cô nọ, chứ tôi là cái gì!
- Ơ cái cô này hay nhỉ? Anh quắc mắt. Cô nói cô này cô nọ là nói quạnh nói khóe những chuyện gì đây? Đừng có hàm hồ, ăn nói vô căn vô cớ…
Trong óc chị hiện ra những hình bóng đàn bà đâu đâu đã đi qua đời anh từ cái thuở xa xăm xa tít nào. Cơn đồng bóng chợt nổi lên, chị vùng vằng ném giỏ thịt xuống đất.
Không may cho chị. Chị có định ném vào anh cho cam? Nhưng đúng lúc đó, anh đang ngồi xổm trên nền nhà chợt đứng vụt dậy, hứng trọn cả giỏ sườn, mở, thịt làm hoen cả chiếc áo trắng. Trời, tai vách mạch rừng, ở khu tập thể này làm gì dấu được ai một ly. Chỉ mấy hôm sau, cô Diệu ở bếp ăn đã đi kháo với tổ cấp dưỡng:
- Này, cái nhà chị Loan ở nhà D1 trông vậy mà đáo để lắm cơ. Đổ cả rổ thịt lên đầu chồng… cái ông Tuấn cũng tốt nhịn thật!
- Thực hả cô; đầu đuôi ra sao? Mấy cô gái trẻ đang nhặt rau ngẩng lên, hiếu kỳ. Thế là cả tuần sau cả khu tập thể đều hay. Ông Nghĩa khét tiếng sợ vợ, cũng lắc đầu bảo bạn:
- Thằng Tuấn dở. Cãi cọ thế nào mà để vợ đổ ụp cả rổ lòng heo nhoe nhoét lên đầu. Vợ tôi mà thế thì thôi, bãi!
Cả hai người cười ngất khi tưởng tượng ra hình ảnh Tuấn với những mảnh tim, gan, phèo, phổi  bê bết trên đầu, trên tóc.
Trong khi mọi người cười đùa, thì chị cụp mặt xuống. Chị ngượng. Chị không dám nhìn ai nữa. Chị thương chồng, ngượng với chồng, rồi phát tức lên với chồng. Chị không bao giờ nhìn anh bằng con mắt như xưa nữa!
Bây giờ thì chị ngồi đây, trước chiếc va ly đã sửa soạn xong. Đêm qua, anh đã lẳng lặng xếp hết áo quần, vật dụng vào đó, trong lúc chị nằm dài trên giường, lơ đãng xem mấy hình hoạt họa trong tờ tạp chí tiếng Nga. Ngày mai anh sẽ lên đường chuyển công tác vào Quy Nhơn. Từ khi anh viết đơn cho đến khi được chấp thuận chuyển, chị không hé răng can thiệp một lời nào. Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt, nhìn nhau đã thấy hết tốt, hết đẹp thì còn đeo đẳng nhau làm chi nữa? Mấy hôm nay bạn bè đến tạm biệt anh, kẻ thì rủ đi nhậu người gửi thức này, thức nọ. Anh tiếp bạn bè vui vẻ, bình tĩnh, lúc hứng chuyện lên anh cười ha hả vô tư. Nghe tiếng, cười, chị thấy se se lòng… Nhưng rồi chị gạt đi, cứng rắn nghĩ thầm “mình chỉ được cái tình cảm vớ vẩn, hão huyền! Y làm gì mặc xác y chứ!”
Chiếc va ly nằm đây. Lần đầu tiên trong đời, anh tự xếp hành trang, không cần nhờ đến chị. Vĩnh viễn anh không cần đến chị nữa. Hơn một năm nay, chị để ý thấy mỗi lần đi công tác xa về, sắc mặt anh hồng hào tươi tỉnh hẳn lên. Rõ ràng căn phòng này chỉ còn là một cái nhà giam ngột ngạt đối với anh. Căn phòng này, cuộc sống này, và chị…
Hôm nay, trước mặt chị, chiếc ghế đẩu trắng xinh xinh vẫn còn đó, trống trơn, lạc lỏng như một giấc mơ không thành. Chị nhếch mép cười: bao nhiêu năm qua, tiền tiêu phí vào những việc đâu đâu mà vẫn không sắm nổi chiếc quạt máy. Không, không phải chỉ là chuyện chiếc quạt, mà còn là ý muốn thiết tha tạo điều kiện để sống hạnh phúc với nhau. Chẳng biết nếu những mùa hè đừng nóng nực, bữa cơm ngon ngọt hơn, hay có thêm chiếc quạt máy, thì cái gia đình nhỏ này sẽ ra sao? Chà, thôi hơi đâu mà nghĩ vớ, nghĩ vẩn nữa, chuyện gì đã qua, cho nó trôi qua, tiếc nuối làm gì?
Tiếng động ở cửa làm chị sực tỉnh. Anh bước vào, cùng với một người bạn. “A, anh Sơn!”
- Sơn đấy. Ngày mai tôi đi, anh ấy rủ đi ăn tối cho vui.
Anh bảo vợ, vừa nói vừa liếc nhìn vẻ mặt chị.
- Ừ, thì đi. (Trong bụng chị thầm nghĩ: vô tình vô nghĩa đến thế thì thôi, còn có hôm cuối cùng, cũng bỏ đi ăn nơi khác!) Đi cho vui chứ còn có một hôm nay, anh em chưa chào hết. Mua được vé tàu chưa?
- Rồi. Phờ cả người, vào ngồi chơi tí đã Sơn. Ngồi một lát cho khỏe rồi lại đi, chứ ở đây nóng lắm.
Sơn bước vào ngồi cạnh bàn, uống nước, nhìn quanh:
- Chỗ này đã lấy gì làm nóng. Chung quanh thoáng, có đâu như bên nhà mình bị cả dãy buynh đinh chắn ngang thành ra cả ngày không được tí gió nào.
Chị lắc đầu, pha thêm nước vào bình trà:
- Anh cứ thử ở đây ít hôm, rồi biết mùi cái mái ngói với bốn bức vách này.
- À, đó là lỗi tại hai ông bà chứ. Đây nóng là tại xáp nắng. Trồng ít cây xanh hay hoa leo là nó mát ngay chứ gì.
Chị đưa mắt nhìn anh, và bắt gặp mắt anh nhìn chị. Thực đơn giản. Nhưng lâu lắm rồi, anh chị chẳng nhớ ra điều đó.
 “Này nhé, trước sân kia, trồng vài cây vũ sữa hay trứng gà gì đấy thì tha hồ mà mát, lại có chỗ mắc võng. Vài năm là có bóng râm ngay thôi. Không thì xuống nhà mình, bứng lên vài mụt hoa giấy…”
Chị lại nhìn anh, và vẫn gặp mắt anh nhìn chị. Một phút trôi qua, anh nhìn đi nơi khác. Sau một thoáng xao xuyến, họ lại trở về với vẻ lạnh lẽo mọi ngày.
Chị cúi đầu, im lặng, rồi khe khẽ bảo:
- Có lẽ bây giờ mà trồng thì muộn mất rồi, anh Sơn ạ. Vô ích.
Sáng hôm sau anh đi. Chị cũng tiễn anh tới sân ga.
Khi còi tàu rít lên và những khung cửa sổ dần dần dang xa khỏi tầm mắt, chị trở về, nằm dài trên chiếc giường nhỏ. Một cảm giác lạ lùng dâng lên trong tim chị, không rõ là buồn hay vui, trống trải hay là thanh thản. Căn phòng bây giờ như khác đi. Lúc trước, chị thấy nó chật chội, tù túng, còn bây giờ thì rộng và nhạt nhẽo. Hơi nóng râm ran vẫn quyện lấy bầu không khí nho nhỏ giữa bốn bức tường xây và mái ngói.
Ôi, cái nóng, cái nóng vẫn đeo đẳng chị từ lúc về đây cho tới lúc chia lìa.
Vươn vai, chị kẹp lại tóc, bước ra hiên. Trong khu tập thể, mọi người đã về, ai nấy lo sửa soạn bữa cơm, tiếng cười đùa vang lên, huyên náo. Với tay lấy chiếc gáo, chị múc nước định rửa mặt cho đỡ nóng.
Chợt chị dừng lại.
Trước hiên, chẳng biết ai đã giăng mấy sợi dây thép mỏng mảnh từ mái nhà xuống tận thềm. Mấy mụt hoa giấy yếu đuối, xanh xanh đang dựa vào đầu giây, ẻo lả. Ai đó đã trồng ở đây một hàng cây non từ sớm tinh mơ…
Ngẩng lên, chị thấy một mảnh giấy gấp tư giắt ở cái mắc áo mưa trước cửa.
Hồi hộp, chị mở bức thư:
 “Loan,
Có lẽ đã xa lắm rồi, cái thời mà người ta có thể sống không cần chút tiện nghi nhỏ nào. Nhưng bây giờ anh mới sực nhớ ra, điều quan trọng không phải là mình không có chiếc quạt máy. Điều quan trọng là mình đã nghĩ đến nhau quá ít… Anh cũng nghĩ như em, bây giờ mà làm một cái gì thì đã quá muộn. Nhưng có lẽ, muộn còn hơn không.
Anh đi, hy vọng giữa chúng mình vẫn còn một cái gì đó tươi xanh, và mong có bóng mát cho em trong cuộc sống - chút bóng mát đủ cho mình có thể nhìn vào mắt nhau… nếu một ngày kia anh còn trở lại…”
 “Không, không…” Chị run lên. Nước mắt ràn rụa trên hai má, chị thấy mơ hồ quanh mình hình ảnh căn phòng ngày nào, nho nhỏ, sạch sẽ. Chiếc gương soi thắt nơ trên vách, chiếc giỏ tre xinh xinh đầy hoa. Rồi chị tưởng chừng bên tai tiếng còi tàu rít lên, và những khung cửa sổ dần dần dang xa, dang xa…
TRẦN THÙY MAI
(nguồn: TCSH số1-06.1983)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN ANMặt trời đã khuất sau rặng núi xa xa, bầu trời chỉ còn sót lại những vệt sáng yếu ớt như những chiếc nan quạt hắt lên từ phía chân trời.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ anh hay, rất nổi tiếng, nhiều người ái mộ.Năm 1975, anh cùng đoàn quân chiến thắng tiến vào giải phóng Sài Gòn, trụ lại thành phố làm đại diện một tờ báo, chốt trực cơ quan. Ở rừng lâu, nằm lán, ngủ võng cũng quen, nay về phố thị, căn hộ hai ba phòng, tự nhiên thấy trống trải, trằn trọc. Hoà bình rồi, cần ổn định cuộc sống, việc đầu tiên là đón mẹ con nó vào.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNấn ná mãi tôi mới quyết định đi thăm Hiền. Quãng đường hơn trăm cây số, vượt qua đèo Cả không có gì đáng ngại. Chỉ hơn ba giờ đồng hồ ngồi xe đò và hơn một giờ nữa trên chếc xe ngựa của ông Sáu cụt chân là tôi đã có thể tới làng Vĩnh Hiệp Nam, về ghềnh Đá Đỏ. Nhà cô giáo Hiền ở đó.

  • LÊ MAICơn mưa chiều sầm sập kéo tới, mưa đổ bì bộp xuống mái nhà; hạt mưa nặng đến nỗi Hoàng tưởng như những tấm tôn phải oằn rướn lên chống đỡ; nước từ các máng xối tuôn ra ào ạt kéo theo hàng đụn lá khô, cỏ rác tràn đầy cống ngoài đường. Mới có năm giờ chiều mà như tám giờ tối.

  • HƯỚNG DƯƠNGTruyện ngắnMùa đông năm ấy tôi phải đi công tác tại một thành phố nhỏ ven biển. Khách sạn tôi trú chân nằm trên một ngọn đồi, nó không sang trọng, bề thế như nhiều khách sạn khác. Nhưng bù lại, nó hướng mặt về phía đại dương. Địa điểm này thật sự lý tưởng cho khách du lịch vào mùa hè, còn mùa đông thì chỉ có những người đặc biệt hay những công việc đặc biệt người ta mới tìm đến đây nghỉ lại. Một người bạn thân đã cho tôi địa chỉ của nó. Tôi khá hài lòng nếu như bạn hàng của tôi không bắt tôi chờ bão tan rồi mới đáp máy bay đến ký hợp đồng.

  • TRẦN HẠ THÁP(thân tặng Ng.X.Hoàng)

  • TRẦN HẠ THÁP    (tiếp theo)

  • VÕ THỊ ÁNH HỒNGTôi vừa chạy vừa gọi chị trong tiếng sóng rì rào và tiếng lao xao của dãy phi lao. Như không nghe thấy tiếng tôi, chị vẫn thẫn thờ nhìn về xa xăm, chờ đợi...

  • PHẠM NGỌC TÚYĐó là một cặp vợ chồng trông rất đẹp đôi và hạnh phúc. Chàng cao lớn, mặt vuông. Nàng mảnh khảnh, xinh xắn. Khi lấy nhau, họ ở nhà tập thể của cơ quan. Sau khi cơ quan dời đi chỗ khác, người được phân đất, kẻ được chia nhà, lần lượt dọn đi. Chỉ trừ chàng. Chàng vì cô mà ở lại.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGXưa có một người nông dân chất phác cần cù, nhà ở gần bìa rừng, làm lụng đầu tắt mặt tối bao năm mới dựng được ngôi nhà tranh ba gian hai chái. Trước nhà có cái sân rộng dùng để phơi lạc, loại nông sản chuyên canh của dân trong vùng. Hai vợ chồng có mỗi mụn con trai nên thường chăm bẵm, những mong sau này có được dâu hiền, phúc nhà đến độ, may chăng cháu chắt đầy nhà là mãn nguyện.

  • NGUYỄN NGỌC LỢICây mai dáng trực đặt nơi khoảng sân lát gạch đỏ của toà nhà ấy đã làm xôn xao cả phố. Gốc cây mai to gộc, u bạnh của nó bám đầy địa y mốc xanh mốc trắng.

  • TRẦN THÙY MAIThấp thoáng trong văn Trần Thùy Mai là sự phô phang hình hài của linh tự. Những linh tự tủi buồn bởi hết thảy chúng đều được hoài thai từ “độ chênh” của những mối tình khó lần ra hồi kết. Điều đó khiến mỗi truyện ngắn của Mai như là một miếng hồng trần nhỏ nhắn - chị lặng lẽ vấy vá bằng sợi tầm ma trước mỗi rạng đông...

  • QUẾ HƯƠNGTôi băng qua đường để lên cầu Trường Tiền. Thằng Tí kéo tay tôi lại: “Cậu qua đường mần chi, xe cán chừ!”. Tôi cứ qua. Đám trẻ con đang chơi ở công viên trước mặt ném đá vào tôi. Tôi chạy lên cầu. Đám trẻ réo: “Ông điên! Ông điên!”. Tí chạy theo, vừa thở, vừa nắm tay tôi: “Ai bảo cậu qua bên ni, dắt cậu thiệt mệt!”.

  • NGUYỄN NGUYÊN PHƯỚC Vào một buổi tối mùa thu, Đinh Hoài Viễn, một nhà văn trẻ tuổi, một người hoàn toàn vô danh trong văn giới, trong khi bóc phong thư mới nhận được vào buổi sáng ngày hôm đó, đã phát hiện ra ở mặt sau cái phong bì rỗng ấy một văn bản kỳ lạ trong hình thức của một truyện ngắn không đề tên tác giả.

  • ĐỖ KIM CUÔNGQuán cà phê cây sứ của vợ chồng Tư Hiền nằm ngay mặt tiền con đường nhỏ dẫn ra biển. Quán không trang hoàng đèn xanh đèn đỏ, không quầy két, không người chạy bàn, chỉ dăm ba bộ bàn ghế nhựa rẻ tiền.

  • HƯƠNG LANNàng sống trong một ngôi nhà xưa, được xây cất từ đời ông cố của nàng, tính ngót nghét nó cũng hơn trăm tuổi. Ngôi nhà nằm giữa một khu vườn mênh mông.

  • LƯƠNG VĂN CHILGT: Nhà tù, nơi chưa mảy may cải hóa được người đàn ông từng trác táng trên nền đạo đức xã hội, nhưng... Truyện được thắt nút khi Thuần “lột trần” vẻ đẹp phồn sinh xuân thì để minh chứng cho những ham muốn nguyên khai của con người là có giới hạn. Không khiên cưỡng ở nhiều chi tiết nhạy cảm, không tục trần trên từng đường cong mỹ diệu... Kịch độc đã thật sự “tiêm” những rung cảm lạ lùng vào miền hoang mê của lương tri đồng loại.

  • GIAO CHỈ    Bão tố thường nổi dậy từ biển khơi hùng vĩ và kể cả. Những hút gió sấn sổ táp xuống mặt đất bao la quăng dội, tàn sát điên cuồng cho hả những cơn giận dồn góp lâu dài.

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNG Những người thắt đáy lưng ongVừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con                                                     (Tục ngữ)